Skip to content

Phẩm về Thắng Trí

AN 4.254 Tuệ Giác (Abhiññāsutta)

"Này các tỳ-khưu (mendicant / vị khất sĩ nam trong Phật giáo), có bốn pháp này. Thế nào là bốn? Có những pháp cần được liễu tri (completely understood / hiểu biết trọn vẹn) bằng thắng trí (direct knowledge / trí tuệ trực tiếp, sự hiểu biết siêu việt). Có những pháp cần được đoạn tận (given up / từ bỏ hoàn toàn) bằng thắng trí. Có những pháp cần được tu tập (developed / thực hành, rèn luyện) bằng thắng trí. Có những pháp cần được chứng ngộ (realized / đạt được bằng sự hiểu biết trực tiếp) bằng thắng trí.

Và này các tỳ-khưu, thế nào là những pháp cần được liễu tri bằng thắng trí? Chính là năm thủ uẩn (five grasping aggregates / năm nhóm yếu tố tạo thành con người mà ta chấp thủ vào). Đây được gọi là những pháp cần được liễu tri bằng thắng trí.

Và này các tỳ-khưu, thế nào là những pháp cần được đoạn tận bằng thắng trí? Chính là vô minh (Ignorance / sự thiếu hiểu biết về Tứ Thánh Đế) và hữu ái (craving for continued existence / sự khao khát được tiếp tục tồn tại). Đây được gọi là những pháp cần được đoạn tận bằng thắng trí.

Và này các tỳ-khưu, thế nào là những pháp cần được tu tập bằng thắng trí? Chính là chỉ (Serenity / sự tĩnh lặng của tâm) và quán (discernment / sự thấy biết rõ ràng, trí tuệ phân biệt). Đây được gọi là những pháp cần được tu tập bằng thắng trí.

Và này các tỳ-khưu, thế nào là những pháp cần được chứng ngộ bằng thắng trí? Chính là minh (Knowledge / trí tuệ, sự hiểu biết đúng đắn) và giải thoát (freedom / sự thoát khỏi khổ đau và ràng buộc). Đây được gọi là những pháp cần được chứng ngộ bằng thắng trí.

Này các tỳ-khưu, đó là bốn pháp."

AN 4.255 Tìm Cầu (Pariyesanāsutta)

"Này các tỳ-khưu, có bốn sự tìm cầu không cao thượng này. Thế nào là bốn? Ở đây, có người tự mình có bản chất già, lại chỉ tìm cầu cái có bản chất già. Tự mình có bản chất bệnh, lại chỉ tìm cầu cái có bản chất bệnh. Tự mình có bản chất chết, lại chỉ tìm cầu cái có bản chất chết. Tự mình có bản chất ô nhiễm, lại chỉ tìm cầu cái có bản chất ô nhiễm. Này các tỳ-khưu, đó là bốn sự tìm cầu không cao thượng.

Này các tỳ-khưu, có bốn sự tìm cầu cao thượng này. Thế nào là bốn? Ở đây, có người tự mình có bản chất già, sau khi biết rõ sự nguy hại (drawback / điều bất lợi, tác hại) của cái có bản chất già, liền tìm cầu cái không già, an ổn tối thượng khỏi các ách trược (supreme sanctuary from the yoke / nơi nương tựa cao nhất thoát khỏi sự ràng buộc), Niết-bàn (extinguishment / sự dập tắt hoàn toàn khổ đau). Tự mình có bản chất bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái có bản chất bệnh, liền tìm cầu cái không bệnh, an ổn tối thượng khỏi các ách trược, Niết-bàn. Tự mình có bản chất chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái có bản chất chết, liền tìm cầu cái bất tử, an ổn tối thượng khỏi các ách trược, Niết-bàn. Tự mình có bản chất ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái có bản chất ô nhiễm, liền tìm cầu cái không ô nhiễm (undefiled / không bị phiền não làm dơ bẩn), an ổn tối thượng khỏi các ách trược, Niết-bàn. Này các tỳ-khưu, đó là bốn sự tìm cầu cao thượng."

AN 4.256 Pháp Nhiếp Thọ (Saṅgahavatthusutta)

"Này các tỳ-khưu, có bốn pháp nhiếp thọ (ways of being inclusive / những cách thu phục lòng người) này. Thế nào là bốn? Bố thí (Giving / sự cho đi), ái ngữ (kindly words / lời nói dễ thương), lợi hành (taking care / hành động vì lợi ích người khác), và đồng sự (equality / cùng làm việc, đối xử bình đẳng). Này các tỳ-khưu, đó là bốn pháp nhiếp thọ."

AN 4.257 Với Māluṅkyaputta (Mālukyaputtasutta)

Rồi Tôn giả (Venerable / từ tôn xưng các vị trưởng lão) Māluṅkyaputta đi đến Đức Phật (Buddha / bậc giác ngộ), đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên và bạch rằng:

"Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn hãy thuyết Pháp (Dhamma / lời dạy của Đức Phật, chân lý) tóm tắt cho con. Sau khi nghe xong, con sẽ sống một mình, độc cư (withdrawn / sống một mình, xa lánh), tinh cần (diligent / siêng năng, nỗ lực), nhiệt tâm (keen / có lòng sốt sắng), quyết tâm (resolute / ý chí vững chắc)."

"Này Māluṅkyaputta, chúng ta biết nói gì với các tỳ-khưu trẻ tuổi, khi ngay cả một người già như ông, lớn tuổi, bậc trưởng thượng, lại yêu cầu Như Lai (Realized One / người đã đến như vậy, một danh hiệu của Đức Phật) thuyết pháp tóm tắt?"

"Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn hãy thuyết Pháp tóm tắt cho con! Mong Đấng Thiện Thệ (Holy One / người đã đi đến nơi tốt đẹp, một danh hiệu của Đức Phật) hãy thuyết Pháp tóm tắt cho con! Mong rằng con có thể hiểu được ý nghĩa lời Thế Tôn dạy! Mong rằng con có thể trở thành người thừa tự Pháp của Thế Tôn!"

"Này Māluṅkyaputta, có bốn pháp này làm phát sinh ái (craving / sự khao khát, ham muốn) trong một tỳ-khưu. Thế nào là bốn? Vì y (robes / áo cà sa), vì vật thực khất thực (almsfood / thức ăn nhận được khi đi xin), vì sàng tọa (lodgings / chỗ ở), hay vì hữu này hay hữu khác (rebirth in this or that state / sự tái sinh trong cảnh giới này hay cảnh giới khác). Này Māluṅkyaputta, đó là bốn pháp làm phát sinh ái trong một tỳ-khưu. Khi ái ấy được vị tỳ-khưu đoạn tận, đoạn tận gốc rễ (cut off at the root / nhổ bỏ hoàn toàn), làm như thân cây kè cụt (made like a palm stump / làm cho không còn khả năng mọc lại), diệt tận (obliterated / làm cho biến mất hoàn toàn), không thể sinh khởi trong tương lai (unable to arise in the future / không còn khả năng phát sinh nữa), thì vị ấy được gọi là tỳ-khưu đã đoạn tận ái, tháo bỏ các kiết sử (untied the fetters / cởi bỏ những ràng buộc trói buộc chúng sinh vào vòng luân hồi), và do chánh quán kiêu mạn (rightly comprehending conceit / thấy rõ bản chất của sự tự cao, ngã mạn) đã chấm dứt khổ đau (made an end of suffering / kết thúc mọi sự khổ).

Khi Tôn giả Māluṅkyaputta được Đức Phật khuyên dạy như vậy, ông từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Đức Phật, thân bên phải hướng về Ngài rồi ra đi. Rồi Tôn giả Māluṅkyaputta, sống một mình, độc cư, tinh cần, nhiệt tâm, quyết tâm, không bao lâu đã chứng ngộ vô thượng cứu cánh của phạm hạnh (supreme culmination of the spiritual path / mục đích cao nhất của đời sống tu tập) ngay trong đời này. Vị ấy sống, đã đạt được với thắng trí của mình (with his own insight / bằng sự hiểu biết trực tiếp của chính mình) mục đích mà vì đó các thiện gia nam tử (gentlemen / người con trai trong gia đình tốt) chân chánh xuất gia từ bỏ đời sống gia đình, sống không gia đình (go forth from the lay life to homelessness / rời bỏ cuộc sống tại gia để sống đời không nhà cửa).

Vị ấy hiểu rõ: "Sanh đã tận (Rebirth is ended / sự tái sinh đã chấm dứt); phạm hạnh đã thành (the spiritual journey has been completed / đời sống tu tập đã hoàn mãn); việc nên làm đã làm (what had to be done has been done / những gì cần làm đã được làm xong); không còn trở lui trạng thái này nữa (there is nothing further for this place / không còn tái sinh trong bất kỳ cảnh giới nào nữa)." Và Tôn giả Māluṅkyaputta đã trở thành một trong các vị A-la-hán (perfected / bậc đã giác ngộ hoàn toàn, thoát khỏi sinh tử luân hồi).

AN 4.258 Gia Đình (Kulasutta)

"Này các tỳ-khưu, khi các gia đình không giữ được sự giàu có lâu dài, luôn luôn là do một hay nhiều trong bốn lý do này. Thế nào là bốn? Họ không tìm kiếm những gì đã mất; họ không sửa chữa những thứ cũ hỏng; họ ăn uống quá độ; hoặc họ giao quyền quản lý cho một người nam hay nữ phi giới đức (unethical / không có đạo đức, không giữ giới). Khi các gia đình không giữ được sự giàu có lâu dài, luôn luôn là do một hay nhiều trong bốn lý do này.

Khi các gia đình giữ được sự giàu có lâu dài, luôn luôn là do một hay nhiều trong bốn lý do này. Thế nào là bốn? Họ tìm kiếm những gì đã mất; họ sửa chữa những thứ cũ hỏng; họ ăn uống có chừng mực; và họ giao quyền quản lý cho một người nam hay nữ giới đức (ethical / có đạo đức, giữ giới). Khi các gia đình giữ được sự giàu có lâu dài, luôn luôn là do một hay nhiều trong bốn lý do này."

AN 4.259 Ngựa Thuần Chủng (1) (Paṭhamaājānīyasutta)

"Này các tỳ-khưu, một con ngựa thuần chủng tốt của vua (fine royal thoroughbred / ngựa quý, giống tốt của nhà vua) có bốn yếu tố thì xứng đáng với vua, thích hợp để phục vụ vua, và được xem là một yếu tố của vương quyền (factor of kingship / phần quan trọng tạo nên uy quyền của vua). Thế nào là bốn? Đó là khi con ngựa thuần chủng tốt của vua xinh đẹp (beautiful / có vẻ ngoài ưa nhìn), mạnh mẽ (strong / có sức lực), nhanh nhẹn (fast / chạy nhanh), và cân đối (well-proportioned / có hình dáng hài hòa). Một con ngựa thuần chủng tốt của vua có bốn yếu tố này thì xứng đáng với vua...

Cũng vậy, này các tỳ-khưu, một tỳ-khưu có bốn pháp thì xứng đáng được cúng dường (worthy of offerings dedicated to the gods / xứng đáng nhận vật phẩm dâng cúng), xứng đáng được nghênh đón (worthy of hospitality / xứng đáng được tiếp đãi), xứng đáng được bố thí (worthy of a religious donation / xứng đáng nhận sự cho đi), xứng đáng được chắp tay kính lễ (worthy of veneration with joined palms / xứng đáng được tôn kính), và là phước điền vô thượng (supreme field of merit / nơi gieo trồng phước báu tốt đẹp nhất) cho đời. Thế nào là bốn? Đó là khi vị tỳ-khưu có sắc (beautiful / có phẩm hạnh tốt đẹp như vẻ đẹp bên ngoài), mạnh mẽ, nhanh nhẹn, và có tướng tốt (well proportioned / có đầy đủ phẩm chất, ở đây chỉ việc dễ dàng nhận được tứ sự cúng dường).

Và thế nào là vị tỳ-khưu có sắc? Này các tỳ-khưu, ở đây, vị tỳ-khưu có giới (ethical / giữ gìn đạo đức), hộ trì trong giới bổn (restrained in the monastic code / sống phòng hộ theo các quy tắc của tu sĩ), đầy đủ oai nghi (conducting themselves well / có cách cư xử đúng mực), hành xứ đúng chỗ (resorting for alms in suitable places / đi đến những nơi thích hợp để khất thực), thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt (Seeing danger in the slightest fault / nhận thức được tác hại của những vi phạm dù là nhỏ), chấp nhận và học tập các học giới (keep the rules they've undertaken / tuân thủ các điều đã học). Như vậy là vị tỳ-khưu có sắc.

Và thế nào là vị tỳ-khưu mạnh mẽ? Này các tỳ-khưu, ở đây, vị tỳ-khưu sống tinh tấn (energy roused up / nỗ lực), từ bỏ các bất thiện pháp (unskillful qualities / những trạng thái tâm tiêu cực, có hại), làm viên mãn các thiện pháp (skillful qualities / những trạng thái tâm tích cực, có lợi), nỗ lực, kiên trì, bền vững (staunchly vigorous / có nghị lực vững chắc), không từ bỏ trách nhiệm (not slacking off / không lơ là) trong việc tu tập các thiện pháp. Như vậy là vị tỳ-khưu mạnh mẽ.

Và thế nào là vị tỳ-khưu nhanh nhẹn? Này các tỳ-khưu, ở đây, vị tỳ-khưu như thật tuệ tri (truly understand / hiểu biết đúng như thật): 'Đây là khổ (suffering / sự đau khổ, bất toại nguyện)'... 'Đây là khổ tập (origin of suffering / nguyên nhân của khổ)'... 'Đây là khổ diệt (cessation of suffering / sự chấm dứt khổ)'... 'Đây là con đường đưa đến khổ diệt (practice that leads to the cessation of suffering / phương pháp thực hành để chấm dứt khổ)'. Như vậy là vị tỳ-khưu nhanh nhẹn.

Và thế nào là vị tỳ-khưu có tướng tốt? Này các tỳ-khưu, ở đây, vị tỳ-khưu nhận được y, vật thực khất thực, sàng tọa, và dược phẩm trị bệnh (medicines and supplies for the sick / thuốc men và vật dụng cần thiết cho người bệnh). Như vậy là vị tỳ-khưu có tướng tốt.

Này các tỳ-khưu, một tỳ-khưu có bốn pháp này... là phước điền vô thượng cho đời."

AN 4.260 Ngựa Thuần Chủng (2) (Dutiyaājānīyasutta)

"Này các tỳ-khưu, một con ngựa thuần chủng tốt của vua có bốn yếu tố thì xứng đáng với vua, thích hợp để phục vụ vua, và được xem là một yếu tố của vương quyền. Thế nào là bốn? Đó là khi con ngựa thuần chủng tốt của vua xinh đẹp, mạnh mẽ, nhanh nhẹn, và cân đối. Một con ngựa thuần chủng tốt của vua có bốn yếu tố này thì xứng đáng với vua...

Cũng vậy, này các tỳ-khưu, một tỳ-khưu có bốn pháp thì xứng đáng được cúng dường, xứng đáng được nghênh đón, xứng đáng được bố thí, xứng đáng được chắp tay kính lễ, và là phước điền vô thượng cho đời. Thế nào là bốn? Đó là khi vị tỳ-khưu có sắc, mạnh mẽ, nhanh nhẹn, và có tướng tốt.

Và thế nào là vị tỳ-khưu có sắc? Này các tỳ-khưu, ở đây, vị tỳ-khưu có giới, hộ trì trong giới bổn, đầy đủ oai nghi, hành xứ đúng chỗ, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập các học giới. Như vậy là vị tỳ-khưu có sắc.

Và thế nào là vị tỳ-khưu mạnh mẽ? Này các tỳ-khưu, ở đây, vị tỳ-khưu sống tinh tấn, từ bỏ các bất thiện pháp, làm viên mãn các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, bền vững, không từ bỏ trách nhiệm trong việc tu tập các thiện pháp. Như vậy là vị tỳ-khưu mạnh mẽ.

Và thế nào là vị tỳ-khưu nhanh nhẹn? Này các tỳ-khưu, ở đây, vị tỳ-khưu do sự đoạn tận các lậu hoặc (ending of defilements / sự chấm dứt hoàn toàn các ô nhiễm, phiền não ngủ ngầm), ngay trong đời này, tự mình với thắng trí chứng ngộ và an trú vô lậu tâm giải thoát (undefiled freedom of heart / sự giải thoát của tâm khỏi các ô nhiễm), tuệ giải thoát (freedom by wisdom / sự giải thoát nhờ trí tuệ). Như vậy là vị tỳ-khưu nhanh nhẹn.

Và thế nào là vị tỳ-khưu có tướng tốt? Này các tỳ-khưu, ở đây, vị tỳ-khưu nhận được y, vật thực khất thực, sàng tọa, và dược phẩm trị bệnh. Như vậy là vị tỳ-khưu có tướng tốt.

Này các tỳ-khưu, một tỳ-khưu có bốn pháp này... là phước điền vô thượng cho đời."

AN 4.261 Lực (Balasutta)

"Này các tỳ-khưu, có bốn lực (powers / sức mạnh nội tâm) này. Thế nào là bốn? Tấn (energy / sự tinh tấn, nỗ lực) lực, niệm (mindfulness / sự chú tâm, ghi nhớ) lực, định (immersion / sự tập trung tâm ý) lực, và tuệ (wisdom / sự hiểu biết đúng đắn) lực. Này các tỳ-khưu, đó là bốn lực."

AN 4.262 Rừng Núi (Araññasutta)

"Này các tỳ-khưu, khi một tỳ-khưu có bốn pháp này thì không sẵn sàng để sống ở những trú xứ xa vắng trong rừng núi (frequent remote lodgings in the wilderness and the forest / ở nơi hẻo lánh, ít người). Thế nào là bốn? Vị ấy có dục tầm (sensual thoughts / suy nghĩ liên quan đến ham muốn giác quan), sân tầm (malicious thoughts / suy nghĩ liên quan đến sân hận), và hại tầm (cruel thoughts / suy nghĩ liên quan đến làm hại); hoặc vị ấy ngu si, đần độn, câm đặc (witless, dull, and idiotic / thiếu trí tuệ, chậm lụt). Khi một tỳ-khưu có bốn pháp này thì không sẵn sàng để sống ở những trú xứ xa vắng trong rừng núi.

Này các tỳ-khưu, khi một tỳ-khưu có bốn pháp này thì sẵn sàng để sống ở những trú xứ xa vắng trong rừng núi. Thế nào là bốn? Vị ấy có ly dục tầm (thoughts of renunciation / suy nghĩ về sự từ bỏ ham muốn), vô sân tầm (good will / suy nghĩ về lòng từ), và bất hại tầm (harmlessness / suy nghĩ về lòng bi, không làm hại); và vị ấy có trí tuệ, không đần độn, không câm đặc (wise, bright, and clever / sáng suốt, thông minh). Khi một tỳ-khưu có bốn pháp này thì sẵn sàng để sống ở những trú xứ xa vắng trong rừng núi."

AN 4.263 Nghiệp (Kammasutta)

"Này các tỳ-khưu, khi một người ngu, không có khả năng, không chân thật (foolish, incompetent untrue person / người thiếu trí tuệ, kém cỏi, giả dối) có bốn pháp này, họ tự mình bị thương tổn, hư hại (keep themselves broken and damaged / tự làm hại chính mình). Họ bị người trí khiển trách, chê bai (deserve to be blamed and criticized by sensible people / đáng bị người có hiểu biết phê phán), và họ tạo nhiều điều bất thiện (create much wickedness / gây ra nhiều việc xấu ác). Thế nào là bốn? Hành động đáng chê trách qua thân, khẩu, và ý (Blameworthy deeds by way of body, speech, and mind / việc làm sai trái qua thân thể, lời nói và suy nghĩ), và tà kiến đáng chê trách (blameworthy view / quan điểm sai lầm đáng bị chỉ trích). Khi một người ngu, không có khả năng, không chân thật có bốn pháp này, họ tự mình bị thương tổn, hư hại. Họ bị người trí khiển trách, chê bai, và họ tạo nhiều điều bất thiện.

Này các tỳ-khưu, khi một người trí, có khả năng, chân thật (astute, competent true person / người có trí tuệ, tài năng, thành thật) có bốn pháp này, họ tự mình không bị thương tổn, hư hại (keep themselves intact and unscathed / tự bảo vệ mình khỏi tổn hại). Họ không bị người trí khiển trách, chê bai (don't deserve to be blamed and criticized by sensible people / không đáng bị người có hiểu biết phê phán), và họ tạo nhiều công đức (create much merit / làm được nhiều việc tốt lành). Thế nào là bốn? Hành động không đáng chê trách qua thân, khẩu, và ý (Blameless deeds by way of body, speech, and mind / việc làm đúng đắn qua thân thể, lời nói và suy nghĩ), và chánh kiến không đáng chê trách (blameless view / quan điểm đúng đắn không đáng bị chỉ trích). Khi một người trí, có khả năng, chân thật có bốn pháp này, họ tự mình không bị thương tổn, hư hại. Họ không bị người trí khiển trách, chê bai, và họ tạo nhiều công đức."