29. Kinh Thuyết Giảng Ấn Tượng
Pāsādikasutta
Như vầy tôi nghe. Một thời Đức Phật đang ở tại xứ của những người Sakya trong một ngôi nhà sàn dài trong một khu vườn xoài của những người Sakya tên là Vedhaññā.190
Vào lúc bấy giờ, vị tu sĩ khổ hạnh của gia tộc Ñātika vừa qua đời tại Pāvā.191 Với sự ra đi của ông, các tu sĩ Kỳ-na giáo chia rẽ, phân thành hai phe, tranh cãi, cãi vã, và tranh chấp, liên tục làm tổn thương nhau bằng những lời lẽ cay độc:192
"Ông không hiểu giáo pháp và sự tu tập này. Tôi mới hiểu giáo pháp và sự tu tập này. Cái gì, ông hiểu giáo pháp và sự tu tập này ư? Ông đang thực hành sai. Tôi đang thực hành đúng. Tôi nói đúng chủ đề, ông thì không. Ông nói sau cùng điều đáng lẽ phải nói trước. Ông nói trước điều đáng lẽ phải nói sau. Điều ông đã suy nghĩ rất nhiều đã bị bác bỏ. Học thuyết của ông đã bị réfuter. Cứ tiếp tục đi, hãy cứu lấy học thuyết của ông! Ông đã bị mắc bẫy; hãy tự thoát ra khỏi đây---nếu ông có thể!"
Người ta có thể nghĩ rằng không có gì ngoài sự tàn sát đang diễn ra giữa các tu sĩ Kỳ-na giáo.193 Và những đệ tử tại gia mặc áo trắng của Kỳ-na giáo Ñātika đã vỡ mộng, kinh hãi, và thất vọng về các tu sĩ Kỳ-na giáo. Họ cũng thất vọng không kém với một giáo pháp và sự tu tập được giải thích và trình bày một cách tồi tệ, không giải thoát, không dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người không phải là một vị Phật toàn giác, với một di tích đã đổ vỡ và không có nơi nương tựa.194
Và rồi, sau khi hoàn thành kỳ an cư mùa mưa gần Pāvā, sa di Cunda đến gặp Tôn giả Ānanda tại làng Sāma. Vị ấy đảnh lễ, ngồi xuống một bên, và kể lại cho ngài nghe những gì đã xảy ra.195
Ānanda nói với vị ấy, "Thưa hiền giả Cunda, chúng ta nên đến gặp Đức Phật về vấn đề này. Nào, chúng ta hãy đến gặp Đức Phật và kể cho ngài nghe về chuyện này."
"Vâng, thưa ngài," Cunda đáp.
Sau đó, Ānanda và Cunda đến gặp Đức Phật, đảnh lễ, ngồi xuống một bên, và kể lại cho ngài nghe những gì đã xảy ra.
1. Giáo Pháp của Người Chưa Giác Ngộ
"Đó là điều xảy ra, Cunda, khi một giáo pháp và sự tu tập được giải thích và trình bày một cách tồi tệ, không giải thoát, không dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người không phải là một vị Phật toàn giác.196
Hãy xét trường hợp một vị thầy chưa giác ngộ, và giáo pháp được giải thích và trình bày một cách tồi tệ, không giải thoát, không dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người không phải là một vị Phật toàn giác. Một người đệ tử trong giáo pháp đó không thực hành theo đúng giáo pháp, không thực hành theo quy trình đó, không sống theo đúng giáo pháp. Họ tiếp tục sau khi đã từ bỏ giáo pháp đó.197 Con nên nói với họ rằng, 'Thật may mắn cho hiền giả, thật vô cùng may mắn! Vì thầy của hiền giả chưa giác ngộ, và giáo pháp của vị ấy được giải thích và trình bày một cách tồi tệ, không giải thoát, không dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người không phải là một vị Phật toàn giác. Và hiền giả lại không thực hành theo giáo pháp đó, không thực hành theo quy trình đó, không sống theo đúng giáo pháp. Hiền giả tiếp tục sau khi đã từ bỏ giáo pháp đó.' Trong trường hợp như vậy, vị thầy và giáo pháp đáng bị khiển trách, nhưng người đệ tử đáng được khen ngợi.198 Giả sử có người nói với một người đệ tử như vậy, 'Nào, thưa tôn giả, hãy thực hành như thầy của ngài đã dạy và chỉ ra.' Người khuyến khích, người được khuyến khích, và người thực hành theo đó đều tạo ra nhiều điều ác.199 Tại sao vậy? Đó là vì giáo pháp và sự tu tập đó được giải thích và trình bày một cách tồi tệ, không giải thoát, không dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người không phải là một vị Phật toàn giác.
Hãy xét trường hợp một vị thầy chưa giác ngộ, và giáo pháp được giải thích và trình bày một cách tồi tệ, không giải thoát, không dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người không phải là một vị Phật toàn giác. Một người đệ tử trong giáo pháp đó thực hành theo đúng giáo pháp, thực hành theo quy trình đó, sống theo đúng giáo pháp. Họ tiếp tục sau khi đã chấp nhận giáo pháp đó. Con nên nói với họ rằng, 'Đó là sự mất mát của hiền giả, đó là sự bất hạnh của hiền giả! Vì thầy của hiền giả chưa giác ngộ, và giáo pháp của vị ấy được giải thích và trình bày một cách tồi tệ, không giải thoát, không dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người không phải là một vị Phật toàn giác. Nhưng hiền giả lại thực hành theo giáo pháp đó, thực hành theo quy trình đó, sống theo đúng giáo pháp. Hiền giả tiếp tục sau khi đã chấp nhận giáo pháp đó.' Trong trường hợp như vậy, vị thầy, giáo pháp, và người đệ tử đều đáng bị khiển trách. Giả sử có người nói với một người đệ tử như vậy, 'Rõ ràng tôn giả đang thực hành một cách có hệ thống và sẽ thành công trong hệ thống đó.' Người tán dương, người được tán dương, và người, khi được tán dương, lại càng tinh tấn hơn, tất cả đều tạo ra nhiều điều ác. Tại sao vậy? Đó là vì giáo pháp và sự tu tập đó được giải thích và trình bày một cách tồi tệ, không giải thoát, không dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người không phải là một vị Phật toàn giác.
2. Giáo Pháp của Người Đã Giác Ngộ
Hãy xét trường hợp một vị thầy đã giác ngộ, và giáo pháp được giải thích và trình bày một cách tốt đẹp, giải thoát, dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người là một vị Phật toàn giác. Một người đệ tử trong giáo pháp đó không thực hành theo đúng giáo pháp, không thực hành theo quy trình đó, không sống theo đúng giáo pháp. Họ tiếp tục sau khi đã từ bỏ giáo pháp đó. Con nên nói với họ rằng, 'Đó là sự mất mát của hiền giả, đó là sự bất hạnh của hiền giả! Vì thầy của hiền giả đã giác ngộ, và giáo pháp của vị ấy được giải thích và trình bày một cách tốt đẹp, giải thoát, dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người là một vị Phật toàn giác. Nhưng hiền giả lại không thực hành theo giáo pháp đó, không thực hành theo quy trình đó, không sống theo đúng giáo pháp. Hiền giả tiếp tục sau khi đã từ bỏ giáo pháp đó.' Trong trường hợp như vậy, vị thầy và giáo pháp đáng được khen ngợi, nhưng người đệ tử đáng bị khiển trách. Giả sử có người nói với một người đệ tử như vậy, 'Nào, thưa tôn giả, hãy thực hành như thầy của ngài đã dạy và chỉ ra.' Người khuyến khích, người được khuyến khích, và người thực hành theo đó đều tạo ra nhiều công đức. Tại sao vậy? Đó là vì giáo pháp và sự tu tập đó được giải thích và trình bày một cách tốt đẹp, giải thoát, dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người là một vị Phật toàn giác.
Hãy xét trường hợp một vị thầy đã giác ngộ, và giáo pháp được giải thích và trình bày một cách tốt đẹp, giải thoát, dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người là một vị Phật toàn giác. Một người đệ tử trong giáo pháp đó thực hành theo đúng giáo pháp, thực hành theo quy trình đó, sống theo đúng giáo pháp. Họ tiếp tục sau khi đã chấp nhận giáo pháp đó. Con nên nói với họ rằng, 'Thật may mắn cho hiền giả, thật vô cùng may mắn! Vì thầy của hiền giả đã giác ngộ, và giáo pháp của vị ấy được giải thích và trình bày một cách tốt đẹp, giải thoát, dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người là một vị Phật toàn giác. Và hiền giả lại thực hành theo giáo pháp đó, thực hành theo quy trình đó, sống theo đúng giáo pháp. Hiền giả tiếp tục sau khi đã chấp nhận giáo pháp đó.' Trong trường hợp như vậy, vị thầy, giáo pháp, và người đệ tử đều đáng được khen ngợi. Giả sử có người nói với một người đệ tử như vậy, 'Rõ ràng tôn giả đang thực hành một cách có hệ thống và sẽ thành công trong hệ thống đó.' Người tán dương, người được tán dương, và người, khi được tán dương, lại càng tinh tấn hơn, tất cả đều tạo ra nhiều công đức. Tại sao vậy? Đó là vì giáo pháp và sự tu tập đó được giải thích và trình bày một cách tốt đẹp, giải thoát, dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người là một vị Phật toàn giác.
3. Khi Đệ Tử Hối Tiếc
Hãy xét trường hợp một vị thầy xuất hiện trên thế gian, là một bậc A-la-hán, một vị Phật toàn giác. Giáo pháp được giải thích và trình bày một cách tốt đẹp, giải thoát, dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người đã toàn giác. Nhưng các đệ tử chưa được giáo dục về ý nghĩa của giáo pháp tốt đẹp đó. Và phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và trong sạch đã không được phơi bày và tiết lộ cho họ; những lời dạy của nó đã không được thu thập đầy đủ; và nó đã không được tuyên thuyết một cách tốt đẹp với cơ sở có thể chứng minh được ở bất cứ nơi nào có chư thiên và loài người.200 Và rồi thầy của họ qua đời. Khi một vị thầy như vậy qua đời, các đệ tử bị dày vò bởi sự hối tiếc. Tại sao vậy? Họ nghĩ: 'Thầy của chúng ta là một bậc A-la-hán, một vị Phật toàn giác. Giáo pháp của ngài được giải thích tốt đẹp, nhưng chúng ta chưa được giáo dục về ý nghĩa của nó. Và phạm hạnh đã không được phơi bày và tiết lộ đầy đủ cho chúng ta; những lời dạy của nó đã không được thu thập đầy đủ; và nó đã không được tuyên thuyết một cách tốt đẹp với cơ sở có thể chứng minh được ở bất cứ nơi nào có chư thiên và loài người. Và rồi thầy của chúng ta qua đời.' Khi một vị thầy như vậy qua đời, các đệ tử bị dày vò bởi sự hối tiếc.
4. Khi Đệ Tử Không Hối Tiếc
Hãy xét trường hợp một vị thầy xuất hiện trên thế gian, là một bậc A-la-hán, một vị Phật toàn giác. Giáo pháp được giải thích và trình bày một cách tốt đẹp, giải thoát, dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người đã toàn giác. Các đệ tử đã được giáo dục về ý nghĩa của giáo pháp tốt đẹp đó. Và phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và trong sạch đã được phơi bày và tiết lộ cho họ; những lời dạy của nó đã được thu thập đầy đủ; và nó đã được tuyên thuyết một cách tốt đẹp với cơ sở có thể chứng minh được ở bất cứ nơi nào có chư thiên và loài người. Và rồi thầy của họ qua đời. Khi một vị thầy như vậy qua đời, các đệ tử không còn hối tiếc. Tại sao vậy? Họ nghĩ: 'Thầy của chúng ta là một bậc A-la-hán, một vị Phật toàn giác. Giáo pháp của ngài được giải thích tốt đẹp, chúng ta đã được giáo dục về ý nghĩa của nó, và phạm hạnh đã được phơi bày đầy đủ cho chúng ta. Và rồi thầy của chúng ta qua đời.' Khi một vị thầy như vậy qua đời, các đệ tử không còn hối tiếc.
5. Về Con Đường Tâm Linh Chưa Hoàn Thiện, V.v.
Này Cunda, giả sử một con đường tâm linh sở hữu những yếu tố đó. Nhưng vị thầy không phải là bậc trưởng thượng, có tuổi đạo lâu dài, xuất gia đã lâu, tuổi đời đã cao, và đã đến giai đoạn cuối của cuộc đời. Thì con đường tâm linh đó là chưa hoàn thiện ở phương diện ấy.
Nhưng khi một con đường tâm linh sở hữu những yếu tố đó và vị thầy là bậc trưởng thượng, thì con đường tâm linh đó là hoàn thiện ở phương diện ấy.
Này Cunda, giả sử một con đường tâm linh sở hữu những yếu tố đó và vị thầy là bậc trưởng thượng. Nhưng không có những vị Tỷ kheo đệ tử trưởng thượng có năng lực, có học thức, vững vàng, đã đạt được ách an ổn (sanctuary from the yoke / nơi an toàn khỏi gánh nặng),201 những người có thể giải thích đúng đắn chánh pháp, và có thể bác bỏ một cách hợp pháp và hoàn toàn các học thuyết của người khác khi chúng xuất hiện, và giảng dạy với một cơ sở có thể chứng minh được. Thì con đường tâm linh đó là chưa hoàn thiện ở phương diện ấy.
Nhưng khi một con đường tâm linh sở hữu những yếu tố đó và vị thầy là bậc trưởng thượng và có những vị Tỷ kheo trưởng thượng có năng lực, thì con đường tâm linh đó là hoàn thiện ở phương diện ấy.
Này Cunda, giả sử một con đường tâm linh sở hữu những yếu tố đó và vị thầy là bậc trưởng thượng và có những vị Tỷ kheo trưởng thượng có năng lực. Nhưng không có những vị Tỷ kheo trung tọa, Tỷ kheo hạ tọa, Tỷ kheo ni thượng tọa, Tỷ kheo ni trung tọa, Tỷ kheo ni hạ tọa, nam cư sĩ tại gia mặc áo trắng sống độc thân, nam cư sĩ tại gia mặc áo trắng hưởng thụ các thú vui giác quan, nữ cư sĩ tại gia mặc áo trắng sống độc thân, nữ cư sĩ tại gia mặc áo trắng hưởng thụ các thú vui giác quan có năng lực. ... Có những nữ cư sĩ tại gia mặc áo trắng hưởng thụ các thú vui giác quan, nhưng con đường tâm linh không thành công và thịnh vượng, rộng lớn, phổ biến, lan rộng, và được tuyên thuyết tốt đẹp ở bất cứ nơi nào có chư thiên và loài người ... con đường tâm linh thành công và thịnh vượng, rộng lớn, phổ biến, lan rộng, và được tuyên thuyết tốt đẹp ở bất cứ nơi nào có chư thiên và loài người, nhưng nó chưa đạt đến đỉnh cao của vật chất và danh vọng. Thì con đường tâm linh đó là chưa hoàn thiện ở phương diện ấy.
Nhưng khi một con đường tâm linh sở hữu những yếu tố đó và vị thầy là bậc trưởng thượng và có những vị Tỷ kheo trưởng thượng, Tỷ kheo trung tọa, Tỷ kheo hạ tọa, Tỷ kheo ni thượng tọa, Tỷ kheo ni trung tọa, Tỷ kheo ni hạ tọa, nam cư sĩ tại gia sống độc thân, nam cư sĩ tại gia hưởng thụ các thú vui giác quan, nữ cư sĩ tại gia sống độc thân, nữ cư sĩ tại gia hưởng thụ các thú vui giác quan có năng lực, và con đường tâm linh thành công và thịnh vượng, rộng lớn, phổ biến, lan rộng, và được tuyên thuyết tốt đẹp ở bất cứ nơi nào có chư thiên và loài người, và nó đã đạt đến đỉnh cao của vật chất và danh vọng, thì con đường tâm linh đó là hoàn thiện ở phương diện ấy.
Ta, Cunda, là một vị thầy đã xuất hiện trên thế gian ngày nay, một bậc A-la-hán và toàn giác. Giáo pháp được giải thích và trình bày một cách tốt đẹp, giải thoát, dẫn đến sự an tịnh, được tuyên thuyết bởi một người đã toàn giác. Các đệ tử của ta đã được giáo dục về ý nghĩa của giáo pháp tốt đẹp đó. Và phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và trong sạch đã được phơi bày và tiết lộ cho họ với tất cả những lời dạy đã được thu thập, với cơ sở có thể chứng minh được, được tuyên thuyết tốt đẹp ở bất cứ nơi nào có chư thiên và loài người. Ta là một vị thầy ngày nay là bậc trưởng thượng, có tuổi đạo lâu dài, xuất gia đã lâu, tuổi đời đã cao, và đã đến giai đoạn cuối của cuộc đời.
Ta ngày nay có các đệ tử là những vị Tỷ kheo trưởng thượng, Tỷ kheo trung tọa, Tỷ kheo hạ tọa, Tỷ kheo ni thượng tọa, Tỷ kheo ni trung tọa, Tỷ kheo ni hạ tọa, nam cư sĩ tại gia sống độc thân, nam cư sĩ tại gia hưởng thụ các thú vui giác quan, nữ cư sĩ tại gia sống độc thân, và nữ cư sĩ tại gia hưởng thụ các thú vui giác quan có năng lực. Ngày nay, con đường tâm linh của ta thành công và thịnh vượng, rộng lớn, phổ biến, lan rộng, và được tuyên thuyết tốt đẹp ở bất cứ nơi nào có chư thiên và loài người.
Trong tất cả các vị thầy trên thế gian ngày nay, Cunda, ta không thấy một ai đã đạt đến đỉnh cao của vật chất và danh vọng như ta. Trong tất cả các cộng đồng và nhóm tâm linh trên thế gian ngày nay, Cunda, ta không thấy một ai đã đạt đến đỉnh cao của vật chất và danh vọng như Tăng đoàn Tỷ kheo. Và nếu có bất kỳ con đường tâm linh nào mà có thể nói một cách đúng đắn rằng nó được phú cho tất cả các phẩm chất tốt đẹp, hoàn thiện trong tất cả các phẩm chất tốt đẹp, không quá ít cũng không quá nhiều, được giải thích tốt đẹp, toàn vẹn, đầy đủ, và được trình bày tốt đẹp, thì chính là về con đường tâm linh này mà điều đó nên được nói.
Uddaka con của Rāma từng nói:202 'Thấy, mà không thấy.' Nhưng thấy cái gì mà không thấy? Con có thể thấy lưỡi của một con dao cạo được mài sắc, nhưng không thấy được cạnh bén của nó.203 Do đó, người ta nói: 'Thấy, mà không thấy.'204 Nhưng câu nói đó của Uddaka là thấp kém, thô thiển, tầm thường, không cao thượng, và vô ích, vì nó chỉ nói về một con dao cạo. Nếu có bất cứ điều gì mà có thể nói một cách đúng đắn: 'Thấy, mà không thấy,' thì chính là về điều này mà nó nên được nói. Thấy cái gì mà không thấy? Người ta thấy điều này: một con đường tâm linh được phú cho tất cả các phẩm chất tốt đẹp, hoàn thiện trong tất cả các phẩm chất tốt đẹp, không quá ít cũng không quá nhiều, được giải thích tốt đẹp, toàn vẹn, đầy đủ, và được trình bày tốt đẹp. Người ta không thấy điều này: bất cứ điều gì mà nếu được loại bỏ, sẽ làm cho nó trong sạch hơn. Người ta không thấy điều này: bất cứ điều gì mà nếu được thêm vào, sẽ làm cho nó hoàn thiện hơn. Do đó, nói một cách đúng đắn là: 'Thấy, mà không thấy.'
6. Các Giáo Pháp Nên Được Tụng Đọc Chung
Vậy nên, Cunda, tất cả các con nên cùng nhau tụng đọc, không tranh cãi, những điều ta đã dạy cho các con từ sự chứng ngộ trực tiếp của ta, so sánh ý nghĩa với ý nghĩa và văn cú với văn cú, để con đường tâm linh này có thể tồn tại lâu dài. Điều đó sẽ vì lợi ích và hạnh phúc của mọi người, vì lòng thương tưởng đối với thế gian, vì lợi ích, an lạc, và hạnh phúc của chư thiên và loài người.205 Và những điều ta đã dạy từ sự chứng ngộ trực tiếp của ta là gì? Đó là bốn loại thiền niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, và bát chánh đạo.206 Đây là những điều ta đã dạy từ sự chứng ngộ trực tiếp của chính ta.
7. Đạt Được Sự Đồng Thuận
Giả sử một trong những người bạn đồng tu đang tu tập trong sự hòa hợp và quý mến lẫn nhau, không tranh cãi, tụng đọc giáo pháp trong Tăng đoàn. Này, con có thể nghĩ, 'Vị tôn giả này hiểu sai ý nghĩa và nhầm lẫn văn cú.' Con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ họ, mà hãy nói,207 'Thưa hiền giả, nếu đây là ý nghĩa, thì văn cú có thể là thế này hoặc thế kia: cái nào phù hợp hơn? Và nếu đây là văn cú, thì ý nghĩa có thể là thế này hoặc thế kia: cái nào phù hợp hơn?'208 Giả sử họ trả lời, 'Văn cú này phù hợp với ý nghĩa hơn văn cú kia. Và ý nghĩa này phù hợp với văn cú hơn ý nghĩa kia.' Không tâng bốc hay khiển trách họ, con nên cẩn thận thuyết phục họ bằng cách xem xét ý nghĩa đó và văn cú đó.
Giả sử một người bạn đồng tu khác tụng đọc giáo pháp trong Tăng đoàn. Này, con có thể nghĩ, 'Vị tôn giả này hiểu sai ý nghĩa nhưng nói đúng văn cú.' Con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ họ, mà hãy nói, 'Thưa hiền giả, nếu đây là văn cú, thì ý nghĩa có thể là thế này hoặc thế kia: cái nào phù hợp hơn?' Giả sử họ trả lời, 'Ý nghĩa này phù hợp với văn cú hơn ý nghĩa kia.' Không tâng bốc hay khiển trách, con nên cẩn thận thuyết phục họ bằng cách xem xét ý nghĩa đó.
Giả sử một người bạn đồng tu khác tụng đọc giáo pháp trong Tăng đoàn. Này, con có thể nghĩ, 'Vị tôn giả này hiểu đúng ý nghĩa nhưng nhầm lẫn văn cú.' Con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ họ, mà hãy nói, 'Thưa hiền giả, nếu đây là ý nghĩa, thì văn cú có thể là thế này hoặc thế kia: cái nào phù hợp hơn?' Giả sử họ trả lời, 'Văn cú này phù hợp với ý nghĩa hơn văn cú kia.' Không tâng bốc hay khiển trách, con nên cẩn thận thuyết phục họ bằng cách xem xét văn cú đó.
Giả sử một người bạn đồng tu khác tụng đọc giáo pháp trong Tăng đoàn. Này, con có thể nghĩ, 'Vị tôn giả này hiểu đúng ý nghĩa và nói đúng văn cú.' Nói 'Lành thay!' con nên bày tỏ sự tán thành và quý mến đối với lời phát biểu của vị Tỷ kheo đó, và rồi nói với họ, 'Chúng con thật may mắn, thưa hiền giả, thật vô cùng may mắn khi thấy một vị tôn giả như ngài, rất thông thạo về ý nghĩa và văn cú, là một trong những người bạn đồng tu của chúng con!'
8. Lý Do Cho Phép Các Vật Dụng Cần Thiết
Cunda, ta không dạy các con chỉ để chế ngự những lậu hoặc (defilements / những ô nhiễm tinh thần) ảnh hưởng đến đời này. Ta cũng không dạy chỉ để bảo vệ khỏi những lậu hoặc ảnh hưởng đến các đời sau. Ta dạy cả hai, để chế ngự những lậu hoặc ảnh hưởng đến đời này và bảo vệ khỏi những lậu hoặc ảnh hưởng đến các đời sau.
Và đó là lý do tại sao ta đã cho phép các con dùng y phục vừa đủ209 chỉ để chống lại lạnh và nóng; để chống lại sự tiếp xúc của ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát; và để che đậy các bộ phận riêng tư. Ta đã cho phép các con dùng vật thực khất thực vừa đủ chỉ để duy trì thân này, tránh tổn hại, và hỗ trợ việc tu tập tâm linh; để các con sẽ chấm dứt những khó chịu cũ và không làm phát sinh những khó chịu mới, và sẽ tiếp tục sống một cách không chê trách và thoải mái. Ta đã cho phép các con dùng chỗ ở vừa đủ chỉ để chống lại lạnh và nóng; để chống lại sự tiếp xúc của ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát; để trú ẩn khỏi thời tiết khắc nghiệt và để tận hưởng sự ẩn tu. Ta đã cho phép các con dùng thuốc men và vật dụng cho người bệnh vừa đủ chỉ để chống lại những cơn đau của bệnh tật và để tăng cường sức khỏe tốt.
9. Đắm Mình Trong Lạc Thú
Có thể các du sĩ ngoại đạo sẽ nói, 'Các sa môn theo dòng họ Sakya sống đắm mình trong lạc thú.'210 Con nên nói với họ, 'Sự đắm mình trong lạc thú đó là gì? Vì có nhiều loại đắm mình trong lạc thú khác nhau.'
Bốn loại đắm mình trong lạc thú này, Cunda, là thấp kém, thô thiển, tầm thường, không cao thượng, và vô ích. Chúng không dẫn đến sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, tuệ giác, giác ngộ, và Niết-bàn. Bốn loại nào?
Đó là khi một kẻ ngu ngốc nào đó tự làm cho mình hạnh phúc và vui sướng bằng cách giết hại chúng sinh. Đây là loại đắm mình trong lạc thú thứ nhất.
Hơn nữa, có người tự làm cho mình hạnh phúc và vui sướng bằng cách trộm cắp. Đây là loại đắm mình trong lạc thú thứ hai.
Hơn nữa, có người tự làm cho mình hạnh phúc và vui sướng bằng cách nói dối. Đây là loại đắm mình trong lạc thú thứ ba.
Hơn nữa, có người tự giải trí, được cung cấp và chu cấp với năm loại kích thích giác quan. Đây là loại đắm mình trong lạc thú thứ tư.
Đây là bốn loại đắm mình trong lạc thú thấp kém, thô thiển, tầm thường, không cao thượng, và vô ích. Chúng không dẫn đến sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, tuệ giác, giác ngộ, và Niết-bàn.
Có thể các du sĩ ngoại đạo sẽ nói, 'Các sa môn theo dòng họ Sakya sống đắm mình trong lạc thú theo bốn cách này.' Họ nên được bảo rằng, 'Không phải vậy!' Nói như vậy về các con là không đúng; đó là xuyên tạc các con bằng một sự dối trá.
Cunda, bốn loại đắm mình trong lạc thú này chỉ dẫn đến sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, tuệ giác, giác ngộ, và Niết-bàn.211 Bốn loại nào?
Đó là khi một Tỷ kheo, hoàn toàn ly tham dục (sensual desire / các ham muốn thuộc giác quan), ly các pháp bất thiện, nhập và trú trong sơ thiền, có niềm vui (rapture / hỷ) và an ổn (pleasure / lạc) do ly dục sinh, trong khi có tầm có tứ (placing the mind and keeping it connected / chủ động hướng ý nghĩ đến đối tượng và giữ sự quan sát đối tượng đó). Đây là loại đắm mình trong lạc thú thứ nhất.
Hơn nữa, khi tầm và tứ được lắng dịu, một Tỷ kheo nhập và trú trong nhị thiền. Nó có niềm vui và an ổn do định sinh, với nội tâm trong sáng và tâm hợp nhất, không tầm không tứ (without placing the mind or keeping it connected/ không có sự hướng ý nghĩ đến đối tượng nào hay duy trì sự quan sát đối tượng nào). Đây là loại đắm mình trong lạc thú thứ hai.
Hơn nữa, với sự phai nhạt của niềm vui, một Tỷ kheo nhập và trú trong tam thiền. Vị ấy thiền với tâm xả, chánh niệm và tỉnh giác, tự thân cảm nhận sự an ổn mà các bậc Thánh tuyên bố, 'Xả và chánh niệm, người ấy thiền trong an ổn.' Đây là loại đắm mình trong lạc thú thứ ba.
Hơn nữa, từ bỏ lạc và khổ, và chấm dứt hỷ và ưu trước đó, một Tỷ kheo nhập và trú trong tứ thiền. Nó không có lạc cũng không có khổ, với xả và niệm trong sạch. Đây là loại đắm mình trong lạc thú thứ tư.
Đây là bốn loại đắm mình trong lạc thú chỉ dẫn đến sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, tuệ giác, giác ngộ, và Niết-bàn.
Có thể các du sĩ ngoại đạo sẽ nói, 'Các sa môn theo dòng họ Sakya sống đắm mình trong lạc thú theo bốn cách này.' Họ nên được bảo rằng, 'Chính xác là vậy!' Nói như vậy về các con là đúng; nó không xuyên tạc các con bằng một sự dối trá.
10. Lợi Ích của Việc Đắm Mình Trong Lạc Thú
Có thể các du sĩ ngoại đạo sẽ nói, 'Có bao nhiêu quả và lợi ích có thể mong đợi từ những người sống đắm mình trong lạc thú theo bốn cách này?' Con nên nói với họ, 'Bốn lợi ích có thể mong đợi từ những người sống đắm mình trong lạc thú theo bốn cách này. Bốn loại nào?
Thứ nhất, với sự chấm dứt ba kiết sử (fetters/xiềng xích: 1. tin vào có một cái ngã mãi tồn tại; 2. sùng tín và giáo điều (giới cấm thủ); 3. nghi ngờ vào Phật Pháp ), một Tỷ kheo trở thành một vị nhập lưu (stream-enterer / người đã vào dòng thánh), không còn bị tái sinh vào cõi dữ, chắc chắn hướng đến giác ngộ. Đây là quả và lợi ích thứ nhất.
Hơn nữa, một Tỷ kheo—với sự chấm dứt ba kiết sử, và sự suy yếu của tham, sân, và si—trở thành một vị nhất lai (once-returner / người chỉ trở lại một lần). Vị ấy chỉ trở lại thế giới này một lần nữa, rồi chấm dứt khổ đau. Đây là quả và lợi ích thứ hai.
Hơn nữa, với sự chấm dứt năm hạ phần kiết sử, một Tỷ kheo được hóa sinh và sẽ nhập diệt ở đó, không còn trở lại từ thế giới đó. Đây là quả và lợi ích thứ ba.
Hơn nữa, một Tỷ kheo chứng ngộ tâm giải thoát và tuệ giải thoát không còn lậu hoặc ngay trong đời này, và sống sau khi đã chứng ngộ nó bằng tuệ giác của chính mình do sự chấm dứt các lậu hoặc. Đây là quả và lợi ích thứ tư.
Bốn lợi ích này có thể mong đợi từ những người sống đắm mình trong lạc thú theo bốn cách này.'212
11. Những Điều Không Thể Đối Với Bậc A-la-hán
Có thể các du sĩ ngoại đạo sẽ nói, 'Các sa môn theo dòng họ Sakya là những người hay thay đổi.'213 Con nên nói với họ, 'Thưa các hiền giả, những điều này đã được Đức Thế Tôn, người biết và thấy, bậc A-la-hán, vị Phật toàn giác, dạy và chỉ ra cho các đệ tử của ngài, không được vi phạm cho đến trọn đời. Giả sử có một cột mốc ranh giới hoặc một cột sắt có nền móng sâu, được cắm chắc chắn, không thể lay chuyển và không thể rung động. Cũng vậy, những điều này đã được Đức Thế Tôn, người biết và thấy, bậc A-la-hán, vị Phật toàn giác, dạy và chỉ ra cho các đệ tử của ngài, không được vi phạm cho đến trọn đời.
Một Tỷ kheo là bậc A-la-hán—với các lậu hoặc đã chấm dứt, đã hoàn thành con đường tâm linh, đã làm những gì cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích chân chính của mình, đã hoàn toàn chấm dứt Hữu ái, và được giải thoát đúng đắn nhờ giác ngộ—không thể vi phạm ở chín phương diện.214 Một Tỷ kheo với các lậu hoặc đã chấm dứt không thể cố ý lấy đi mạng sống của một chúng sinh, lấy vật gì với ý định trộm cắp, hành dâm, nói dối cố ý, hoặc tích trữ hàng hóa để hưởng thụ riêng như khi còn là người tại gia. Và vị ấy không thể đưa ra quyết định bị thiên vị bởi sự ưu ái, thù địch, ngu dốt, hoặc hèn nhát. Một Tỷ kheo là bậc A-la-hán không thể vi phạm ở chín phương diện này.'
12. Câu Hỏi và Trả Lời
Có thể các du sĩ ngoại đạo sẽ nói, 'Sa môn Gotama chứng tỏ kiến thức và tầm nhìn vô biên về quá khứ, nhưng không phải về tương lai. Chuyện đó là sao?' Những du sĩ đó, giống như những kẻ ngu ngốc bất tài, dường như tưởng tượng rằng một loại kiến thức và tầm nhìn này có thể được chứng tỏ bằng một loại kiến thức và tầm nhìn khác.215
Về quá khứ, Như Lai có trí tuệ bắt nguồn từ ký ức. Ngài nhớ lại xa đến mức ngài muốn.
Về tương lai, Như Lai có trí tuệ sinh ra từ sự giác ngộ:216 'Đây là lần tái sinh cuối cùng của ta; bây giờ sẽ không còn các đời sống tương lai nữa.'
Nếu một câu hỏi về quá khứ là không đúng sự thật, sai lầm, và vô ích, Như Lai không trả lời. Nếu một câu hỏi về quá khứ là đúng và chính xác, nhưng vô ích, ngài không trả lời. Nếu một câu hỏi về quá khứ là đúng, chính xác, và có lợi, ngài biết thời điểm thích hợp để trả lời. Và Như Lai trả lời các câu hỏi về tương lai hoặc hiện tại theo cùng một cách.
Và vì vậy, Như Lai có lời nói đúng lúc, đúng sự thật, có ý nghĩa, phù hợp với giáo pháp và sự tu tập. Đó là lý do tại sao ngài được gọi là 'Như Lai'.217
Trong thế giới này—với chư thiên, Ma vương, và các vị Thần, dân chúng này với các sa môn và bà-la-môn, chư thiên và loài người—bất cứ điều gì được thấy, nghe, nghĩ, biết, đạt được, tìm kiếm, và khám phá bởi tâm trí, tất cả những điều đó đã được Như Lai hiểu rõ. Đó là lý do tại sao ngài được gọi là 'Như Lai'.
Từ đêm mà Như Lai chứng ngộ sự giác ngộ hoàn hảo tối thượng cho đến đêm ngài nhập diệt hoàn toàn—trong yếu tố Niết-bàn không còn dư sót—mọi điều ngài nói, phát biểu, và diễn đạt đều là sự thật, không khác. Đó là lý do tại sao ngài được gọi là 'Như Lai'.
Như Lai làm như ngài nói, và nói như ngài làm. Vì điều này là như vậy, đó là lý do tại sao ngài được gọi là 'Như Lai'. Trong thế giới này—với chư thiên, Ma vương, và các vị thần, dân chúng này với các sa môn và bà-la-môn, chư thiên và loài người—Như Lai là người chiến thắng, người không bị chiến thắng, người thấy biết tất cả, người nắm giữ quyền năng.
13. Các Điểm Không Được Tuyên Bố
Có thể các du sĩ ngoại đạo sẽ nói, 'Đây có phải là quan điểm của ông không: "Như Lai có tồn tại sau khi chết. Đây là sự thật duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích"?'218 Con nên nói với họ, 'Thưa hiền giả, điều này chưa được Đức Phật tuyên bố.'
Các du sĩ có thể nói, 'Vậy thì đây có phải là quan điểm của ông không: "Như Lai không tồn tại sau khi chết. Đây là sự thật duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích"?' Con nên nói với họ, 'Điều này cũng chưa được Đức Phật tuyên bố.'
Các du sĩ có thể nói, 'Vậy thì đây có phải là quan điểm của ông không: "Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết. Đây là sự thật duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích"?' Con nên nói với họ, 'Điều này cũng chưa được Đức Phật tuyên bố.'
Các du sĩ có thể nói, 'Vậy thì đây có phải là quan điểm của ông không: "Như Lai không tồn tại cũng không không tồn tại sau khi chết. Đây là sự thật duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích"?' Con nên nói với họ, 'Điều này cũng chưa được Đức Phật tuyên bố.'
Các du sĩ có thể nói, 'Nhưng tại sao điều này không được sa môn Gotama tuyên bố?' Con nên nói với họ, 'Bởi vì nó không có lợi ích và không liên quan đến những điều căn bản của đời sống phạm hạnh. Nó không dẫn đến sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, tuệ giác, giác ngộ, và Niết-bàn. Đó là lý do tại sao nó chưa được Đức Phật tuyên bố.'
14. Các Điểm Được Tuyên Bố
Có thể các du sĩ ngoại đạo sẽ nói, 'Nhưng điều gì đã được sa môn Gotama tuyên bố?' Con nên nói với họ, 'Điều đã được Đức Phật tuyên bố là thế này: "Đây là khổ"—"Đây là nguồn gốc của khổ"—"Đây là sự diệt khổ"—"Đây là con đường đưa đến sự diệt khổ."'
Các du sĩ có thể nói, 'Nhưng tại sao điều này lại được sa môn Gotama tuyên bố?' Con nên nói với họ, 'Bởi vì nó có lợi ích và liên quan đến những điều căn bản của đời sống phạm hạnh. Nó dẫn đến sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, tuệ giác, giác ngộ, và Niết-bàn. Đó là lý do tại sao nó đã được Đức Phật tuyên bố.'
15. Quan Điểm Về Quá Khứ
Cunda, ta đã giải thích phù hợp cho con về các quan điểm mà một số người dựa vào liên quan đến quá khứ.219 Ta có nên giải thích không phù hợp không? Ta đã giải thích phù hợp cho con về các quan điểm mà một số người dựa vào liên quan đến tương lai. Ta có nên giải thích không phù hợp không?
Những quan điểm mà một số người dựa vào liên quan đến quá khứ là gì? Có một số sa môn và bà-la-môn có học thuyết và quan điểm này: 'Tự ngã và vũ trụ là thường hằng. Đây là sự thật duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích.' Có một số sa môn và bà-la-môn có học thuyết và quan điểm này: 'Tự ngã và vũ trụ không phải là thường hằng, hoặc vừa thường hằng vừa không thường hằng, hoặc không thường hằng cũng không không thường hằng. Tự ngã và vũ trụ được tạo ra bởi chính mình, hoặc được tạo ra bởi người khác, hoặc được tạo ra bởi cả chính mình và người khác, hoặc chúng đã phát sinh một cách ngẫu nhiên, không phải do chính mình hay người khác tạo ra. Lạc và khổ là thường hằng, hoặc không thường hằng, hoặc vừa thường hằng vừa không thường hằng, hoặc không thường hằng cũng không không thường hằng. Lạc và khổ được tạo ra bởi chính mình, hoặc được tạo ra bởi người khác, hoặc được tạo ra bởi cả chính mình và người khác, hoặc chúng đã phát sinh một cách ngẫu nhiên, không phải do chính mình hay người khác tạo ra. Đây là sự thật duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích.'
Về điều này, ta đến gặp các sa môn và bà-la-môn có quan điểm rằng tự ngã và vũ trụ là thường hằng, và nói, 'Thưa các hiền giả, đây có phải là điều các vị nói, "Tự ngã và vũ trụ là thường hằng"?' Nhưng khi họ nói, 'Vâng! Đây là sự thật duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích,' ta không thừa nhận điều đó. Tại sao vậy? Bởi vì có những chúng sinh có những ý kiến khác nhau về chủ đề này. Ta không thấy bất kỳ sự trình bày nào như vậy có thể sánh bằng sự trình bày của chính ta, huống chi là vượt trội hơn. Thay vào đó, ta là người vượt trội hơn khi nói đến sự trình bày cao hơn.
Về điều này, ta đến gặp các sa môn và bà-la-môn khẳng định tất cả các quan điểm khác như đã mô tả ở trên. Và trong mỗi trường hợp, ta không thừa nhận điều đó. Tại sao vậy? Bởi vì có những chúng sinh có những ý kiến khác nhau về chủ đề này. Ta không thấy bất kỳ sự trình bày nào như vậy có thể sánh bằng sự trình bày của chính ta, huống chi là vượt trội hơn. Thay vào đó, ta là người vượt trội hơn khi nói đến sự trình bày cao hơn.
Đây là những quan điểm mà một số người dựa vào liên quan đến quá khứ.
16. Quan Điểm Về Tương Lai
Những quan điểm mà một số người dựa vào liên quan đến tương lai là gì? Có một số sa môn và bà-la-môn có học thuyết và quan điểm này: 'Tự ngã sau khi chết vẫn khỏe mạnh, và có hình sắc ... hoặc không có hình sắc ... hoặc vừa có hình sắc vừa không có hình sắc ... hoặc không có hình sắc cũng không không có hình sắc ... hoặc có nhận thức (perceptions / tưởng, nhận biết-phân biệt và gắn nhãn) ... hoặc không có nhận thức ... hoặc không có nhận thức cũng không không có nhận thức ... hoặc tự ngã bị hủy diệt và tiêu vong khi thân xác tan rã, và không tồn tại sau khi chết. Đây là sự thật duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích.'
Về điều này, ta đến gặp các sa môn và bà-la-môn có quan điểm rằng, 'Tự ngã có hình sắc và khỏe mạnh sau khi chết,' và nói, 'Thưa các hiền giả, đây có phải là điều các vị nói, "Tự ngã có hình sắc và khỏe mạnh sau khi chết"?' Nhưng khi họ nói, 'Vâng! Đây là sự thật duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích,' ta không thừa nhận điều đó. Tại sao vậy? Bởi vì có những chúng sinh có những ý kiến khác nhau về chủ đề này. Ta không thấy bất kỳ sự trình bày nào như vậy có thể sánh bằng sự trình bày của chính ta, huống chi là vượt trội hơn. Thay vào đó, ta là người vượt trội hơn khi nói đến sự trình bày cao hơn.
Về điều này, ta đến gặp các sa môn và bà-la-môn khẳng định tất cả các quan điểm khác như đã mô tả ở trên. Và trong mỗi trường hợp, ta không thừa nhận điều đó. Tại sao vậy? Bởi vì có những chúng sinh có những ý kiến khác nhau về chủ đề này. Ta không thấy bất kỳ sự trình bày nào như vậy có thể sánh bằng sự trình bày của chính ta, huống chi là vượt trội hơn. Thay vào đó, ta là người vượt trội hơn khi nói đến sự trình bày cao hơn.
Đây là những quan điểm mà một số người dựa vào liên quan đến tương lai, mà ta đã giải thích cho con như chúng nên được giải thích. Ta có nên giải thích chúng cho con một cách sai lầm không?
Ta đã dạy và chỉ ra pháp bốn niệm xứ để từ bỏ và vượt qua tất cả những quan điểm này về quá khứ và tương lai.220 Bốn loại nào? Đó là khi một Tỷ kheo thiền bằng cách quan sát một khía cạnh của thân—nhiệt tâm, tỉnh giác, và chánh niệm, loại bỏ tham ái và ưu phiền đối với thế gian. Vị ấy sống bằng cách quan sát một khía cạnh của thọ ... tâm ... pháp—nhiệt tâm, tỉnh giác, và chánh niệm, loại bỏ tham ái và ưu phiền đối với thế gian. Đây là bốn loại pháp niệm xứ mà ta đã dạy để từ bỏ và vượt qua tất cả những quan điểm này về quá khứ và tương lai."
Lúc bấy giờ, Tôn giả Upavāna đang đứng sau Đức Phật quạt cho ngài. Ngài nói với Đức Phật, "Thật phi thường, thưa Thế Tôn, thật đáng kinh ngạc! Bài thuyết giảng này thật ấn tượng, thưa Thế Tôn, nó rất ấn tượng. Thưa Thế Tôn, tên của bài thuyết giảng này là gì?"
"Vậy thì, Upavāna, con có thể ghi nhớ bài thuyết giảng này là 'Kinh Thuyết Giảng Ấn Tượng'."
Đó là những gì Đức Phật đã nói. Tôn giả Upavāna hoan hỷ, tán thán những gì Đức Phật đã nói.