Phẩm về Cục Muối
AN 3.92 Khẩn cấp Accāyikasutta
"Này các Tỳ kheo, người nông dân có ba việc khẩn cấp. Thế nào là ba? Người nông dân nhanh chóng cày bừa kỹ lưỡng thửa ruộng. Tiếp theo, họ nhanh chóng gieo hạt đúng mùa vụ. Khi thời điểm thích hợp, họ nhanh chóng tưới nước hoặc tháo nước cho ruộng. Đó là ba việc khẩn cấp của người nông dân. Người nông dân ấy không có thần thông hay năng lực đặc biệt nào để nói rằng: 'Mong cho lúa mọc mầm hôm nay! Mong cho chúng trổ bông ngày mai! Mong cho chúng chín ngày kia!' Nhưng sẽ đến lúc, khi mùa vụ thay đổi, lúa của người nông dân ấy sẽ mọc mầm, trổ bông và chín.
Cũng vậy, vị Tỳ kheo có ba việc khẩn cấp. Thế nào là ba? Thực hành tăng thượng giới (higher ethics / giới học cao hơn), tăng thượng tâm (higher mind / tâm học cao hơn), và tăng thượng tuệ (higher wisdom / tuệ học cao hơn). Đó là ba việc khẩn cấp của vị Tỳ kheo. Vị Tỳ kheo ấy không có thần thông hay năng lực đặc biệt nào để nói rằng: 'Mong cho tâm ta được giải thoát khỏi phiền não (defilements / các ô nhiễm tâm) nhờ không chấp thủ (grasping / sự bám víu, dính mắc) ngay hôm nay! Hay ngày mai! Hay ngày kia!' Nhưng sẽ đến lúc—khi vị Tỳ kheo ấy tu tập tăng thượng giới, tăng thượng tâm, và tăng thượng tuệ—tâm của vị ấy sẽ được giải thoát khỏi phiền não nhờ không chấp thủ.
Vậy các ngươi nên tu tập như sau: 'Chúng ta sẽ nhiệt tâm thực hành tăng thượng giới, tăng thượng tâm, và tăng thượng tuệ.' Đó là cách các ngươi nên tu tập."
AN 3.93 Độc cư Pavivekasutta
"Này các Tỳ kheo, các du sĩ ngoại đạo (wanderers of other religions / những người tu khổ hạnh thuộc tôn giáo khác) chủ trương ba loại độc cư (seclusion / sự sống một mình, ẩn dật). Thế nào là ba? Độc cư về y phục, độc cư về vật thực, và độc cư về chỗ ở.
Các du sĩ ngoại đạo chủ trương loại độc cư về y phục như thế này. Họ mặc y làm bằng vỏ cây gai dầu, gai dầu trộn lẫn, vải liệm xác chết, vải vụn, vỏ cây lodh, da linh dương (nguyên miếng hoặc cắt thành dải), cỏ kusa, vỏ cây, vụn gỗ, tóc người, lông đuôi ngựa, hoặc cánh cú. Đó là những gì các du sĩ ngoại đạo chủ trương về độc cư y phục.
Các du sĩ ngoại đạo chủ trương loại độc cư về vật thực như thế này. Họ ăn các loại thảo mộc, hạt kê, lúa hoang, gạo xấu, bèo tấm, cám gạo, váng cơm, bột mè, cỏ, hoặc phân bò. Họ sống nhờ rễ cây và trái cây rừng, hoặc ăn trái cây rụng. Đó là những gì các du sĩ ngoại đạo chủ trương về độc cư vật thực.
Các du sĩ ngoại đạo chủ trương loại độc cư về chỗ ở như thế này. Họ ở nơi hoang dã, gốc cây, nghĩa địa, trong rừng, ngoài trời, đống rơm, hoặc lều đập lúa. Đó là những gì các du sĩ ngoại đạo chủ trương về độc cư chỗ ở. Đó là ba loại độc cư mà các du sĩ ngoại đạo chủ trương.
Trong Giáo pháp và Giới luật này, có ba loại độc cư cho một vị Tỳ kheo. Thế nào là ba? Thứ nhất, vị Tỳ kheo có giới hạnh (ethical conduct / hành vi đúng giới luật), từ bỏ phi giới hạnh (unethical conduct / hành vi phi giới luật), sống độc cư khỏi nó. Vị ấy có chánh kiến (right view / thấy biết đúng đắn), từ bỏ tà kiến (wrong view / thấy biết sai lệch), sống độc cư khỏi nó. Vị ấy đã chấm dứt phiền não, từ bỏ phiền não, sống độc cư khỏi chúng. Khi một vị Tỳ kheo có ba loại độc cư này, vị ấy được gọi là Tỳ kheo đã đạt đến đỉnh cao và cốt lõi, thanh tịnh và vững chắc trong cốt lõi.
Khi ruộng lúa của người nông dân đã chín, họ sẽ nhanh chóng gặt lúa, nhanh chóng thu gom, nhanh chóng vận chuyển, nhanh chóng chất thành đống, nhanh chóng đập lúa, nhanh chóng loại bỏ rơm, nhanh chóng sàng sảy, nhanh chóng mang về, nhanh chóng giã, và nhanh chóng loại bỏ vỏ trấu. Bằng cách này, mùa màng của người nông dân đó sẽ đạt đến đỉnh cao và cốt lõi, thanh tịnh và vững chắc trong cốt lõi.
Cũng vậy, khi một vị Tỳ kheo có giới hạnh, từ bỏ phi giới hạnh, sống độc cư khỏi nó; khi vị ấy có chánh kiến, từ bỏ tà kiến, sống độc cư khỏi nó; khi vị ấy đã chấm dứt phiền não, từ bỏ phiền não, sống độc cư khỏi chúng: vị ấy được gọi là Tỳ kheo đã đạt đến đỉnh cao và cốt lõi, thanh tịnh và vững chắc trong cốt lõi."
AN 3.94 Mùa Thu Saradasutta
"Vào mùa thu, bầu trời trong xanh và không một gợn mây. Và khi mặt trời lên cao trên vòm trời, xua tan mọi bóng tối của không gian, nó chiếu sáng, rực rỡ và tỏa rạng.
Cũng vậy, khi cái thấy trong sạch, không tì vết về Giáo pháp khởi lên trong một Thánh đệ tử (noble disciple / vị đệ tử bậc Thánh), ba kiết sử (fetters / những trói buộc) được từ bỏ: thân kiến (substantialist view / niềm tin sai lầm về một cái 'ta' thường hằng), nghi (doubt / sự hoài nghi), và giới cấm thủ (misapprehension of precepts and observances / sự chấp thủ sai lầm vào giới luật và nghi lễ).
Sau đó, vị ấy loại bỏ hai điều: tham ái (covetousness / lòng tham lam) và sân hận (ill will / lòng căm ghét, ác ý). Hoàn toàn ly khai khỏi dục lạc (sensual pleasures / thú vui giác quan), ly khai khỏi các bất thiện pháp (unskillful qualities / các trạng thái tâm tiêu cực, có hại), vị ấy nhập và an trú sơ thiền (first absorption / tầng thiền thứ nhất), một trạng thái có hỷ (rapture / niềm vui thích, phấn khởi) và lạc (bliss / sự an lạc, hạnh phúc) sinh ra từ sự ly dục, trong khi vẫn còn tầm và tứ (placing the mind and keeping it connected / sự hướng tâm và duy trì tâm trên đối tượng thiền). Nếu vị Thánh đệ tử đó mệnh chung vào lúc ấy, vị ấy không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ kiết sử nào có thể khiến vị ấy quay trở lại thế giới này."
AN 3.95 Hội Chúng Parisāsutta
"Này các Tỳ kheo, có ba loại hội chúng này. Thế nào là ba? Hội chúng ưu tú, hội chúng chia rẽ, và hội chúng hòa hợp.
Và thế nào là hội chúng ưu tú? Một hội chúng nơi các Tỳ kheo trưởng lão không buông thả hay lười biếng, cũng không thối lui. Thay vào đó, họ đi đầu trong việc độc cư, khơi dậy tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt, thành tựu những gì chưa thành tựu, và chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và những người đến sau noi gương họ. Họ cũng không buông thả hay lười biếng, cũng không thối lui. Thay vào đó, họ đi đầu trong việc độc cư, khơi dậy tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt, thành tựu những gì chưa thành tựu, và chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Đây được gọi là hội chúng ưu tú.
Và thế nào là hội chúng chia rẽ? Một hội chúng nơi các Tỳ kheo tranh cãi, gây gổ, và tranh chấp, liên tục làm tổn thương nhau bằng những lời nói như gai nhọn. Đây được gọi là hội chúng chia rẽ.
Và thế nào là hội chúng hòa hợp? Một hội chúng nơi các Tỳ kheo sống hòa hợp, quý mến lẫn nhau, không cãi vã, hòa quyện như sữa với nước, và nhìn nhau bằng ánh mắt từ ái. Đây được gọi là hội chúng hòa hợp.
Khi các Tỳ kheo sống hòa hợp như vậy, họ tạo ra nhiều công đức. Lúc đó, các Tỳ kheo sống trong trú xứ của chư Thiên, tức là tâm giải thoát do tùy hỷ (heart's release by rejoicing / sự giải thoát của tâm nhờ niềm vui hoan hỷ với người khác). Khi họ hoan hỷ, hỷ khởi lên. Khi tâm tràn đầy hỷ, thân trở nên an tĩnh. Khi thân an tĩnh, họ cảm thấy lạc. Và khi họ an lạc, tâm trở nên nhập định (samādhi / sự tập trung tâm, thiền định).
Giống như khi trời mưa lớn trên đỉnh núi, nước chảy xuống đồi làm đầy các chỗ trũng, khe nứt và lạch suối. Khi chúng đầy, chúng làm đầy các ao hồ. Ao hồ làm đầy các hồ lớn, hồ lớn làm đầy các dòng suối, và dòng suối làm đầy các con sông. Và khi các con sông đầy, chúng làm đầy đại dương.
Cũng vậy, khi các Tỳ kheo hòa hợp, quý mến lẫn nhau, không cãi vã, hòa quyện như sữa với nước, và nhìn nhau bằng ánh mắt từ ái, họ tạo ra nhiều công đức. Lúc đó, các Tỳ kheo sống trong trú xứ của chư Thiên, tức là tâm giải thoát do tùy hỷ. Khi họ hoan hỷ, hỷ khởi lên. Khi tâm tràn đầy hỷ, thân trở nên an tĩnh. Khi thân an tĩnh, họ cảm thấy lạc. Và khi họ an lạc, tâm trở nên nhập định.
Đó là ba loại hội chúng."
AN 3.96 Ngựa Thuần Chủng (1) Paṭhamaājānīyasutta
"Này các Tỳ kheo, một con ngựa quý thuần chủng của hoàng gia có ba yếu tố thì xứng đáng với vua, phù hợp để phục vụ vua, và được coi là một yếu tố của vương quyền. Thế nào là ba? Đó là khi một con ngựa quý thuần chủng của hoàng gia đẹp đẽ, mạnh mẽ và nhanh nhẹn. Một con ngựa quý thuần chủng của hoàng gia với ba yếu tố này thì xứng đáng với vua...
Cũng vậy, một vị Tỳ kheo có ba phẩm chất thì xứng đáng nhận vật cúng dường dành cho chư Thiên, xứng đáng được tiếp đãi, xứng đáng nhận vật bố thí tôn giáo, xứng đáng được đảnh lễ chắp tay, và là ruộng phước tối thượng cho thế gian. Thế nào là ba? Đó là khi một vị Tỳ kheo đẹp đẽ, mạnh mẽ và nhanh nhẹn.
Và thế nào là một vị Tỳ kheo đẹp đẽ? Đó là khi một vị Tỳ kheo có giới hạnh, sống thu thúc trong giới luật Tỳ kheo, có hạnh kiểm tốt và khất thực ở những nơi thích hợp. Thấy nguy hiểm trong lỗi nhỏ nhặt nhất, vị ấy giữ gìn các giới luật đã thọ nhận. Đó là cách một vị Tỳ kheo đẹp đẽ.
Và thế nào là một vị Tỳ kheo mạnh mẽ? Đó là khi một vị Tỳ kheo sống với tinh tấn được khơi dậy để từ bỏ các bất thiện pháp (unskillful qualities / các trạng thái tâm tiêu cực, có hại) và đón nhận các thiện pháp (skillful qualities / các trạng thái tâm tích cực, có lợi). Vị ấy mạnh mẽ, kiên trì nỗ lực, không lơi lỏng khi phát triển các thiện pháp. Đó là cách một vị Tỳ kheo mạnh mẽ.
Và thế nào là một vị Tỳ kheo nhanh nhẹn? Đó là khi một vị Tỳ kheo thực sự hiểu rõ: 'Đây là khổ (suffering / sự đau khổ, bất toại nguyện)'... 'Đây là khổ tập (origin of suffering / nguyên nhân của khổ)'... 'Đây là khổ diệt (cessation of suffering / sự chấm dứt khổ)'... 'Đây là khổ diệt đạo (practice that leads to the cessation of suffering / con đường đưa đến chấm dứt khổ)'. Đó là cách một vị Tỳ kheo nhanh nhẹn.
Một vị Tỳ kheo với ba phẩm chất này thì xứng đáng nhận vật cúng dường dành cho chư Thiên, xứng đáng được tiếp đãi, xứng đáng nhận vật bố thí tôn giáo, xứng đáng được đảnh lễ chắp tay, và là ruộng phước tối thượng cho thế gian."
AN 3.97 Ngựa Thuần Chủng (2) Dutiyaājānīyasutta
"Này các Tỳ kheo, một con ngựa quý thuần chủng của hoàng gia có ba yếu tố thì xứng đáng với vua, phù hợp để phục vụ vua, và được coi là một yếu tố của vương quyền. Thế nào là ba? Đó là khi một con ngựa quý thuần chủng của hoàng gia đẹp đẽ, mạnh mẽ và nhanh nhẹn. Một con ngựa quý thuần chủng của hoàng gia với ba yếu tố này thì xứng đáng với vua,...
Cũng vậy, một vị Tỳ kheo có ba phẩm chất thì xứng đáng nhận vật cúng dường dành cho chư Thiên, xứng đáng được tiếp đãi, xứng đáng nhận vật bố thí tôn giáo, xứng đáng được đảnh lễ chắp tay, và là ruộng phước tối thượng cho thế gian. Thế nào là ba? Đó là khi một vị Tỳ kheo đẹp đẽ, mạnh mẽ và nhanh nhẹn.
Và thế nào là một vị Tỳ kheo đẹp đẽ? Đó là khi một vị Tỳ kheo có giới hạnh, sống thu thúc trong giới luật Tỳ kheo, có hạnh kiểm tốt và khất thực ở những nơi thích hợp. Thấy nguy hiểm trong lỗi nhỏ nhặt nhất, vị ấy giữ gìn các giới luật đã thọ nhận. Đó là cách một vị Tỳ kheo đẹp đẽ.
Và thế nào là một vị Tỳ kheo mạnh mẽ? Đó là khi một vị Tỳ kheo sống với tinh tấn được khơi dậy để từ bỏ các bất thiện pháp và đón nhận các thiện pháp. Vị ấy mạnh mẽ, kiên trì nỗ lực, không lơi lỏng khi phát triển các thiện pháp. Đó là cách một vị Tỳ kheo mạnh mẽ.
Và thế nào là một vị Tỳ kheo nhanh nhẹn? Đó là khi một vị Tỳ kheo, với sự chấm dứt của năm hạ phần kiết sử (five lower fetters / năm trói buộc thuộc cõi thấp), được hóa sinh (reborn spontaneously / sinh ra một cách tự nhiên, không qua thai bào). Vị ấy nhập Niết bàn tại đó (extinguished there / đạt Niết bàn ở cõi đó), và là bậc bất lai (not liable to return from that world / không còn quay lại cõi này). Đó là cách một vị Tỳ kheo nhanh nhẹn.
Một vị Tỳ kheo với ba phẩm chất này thì xứng đáng nhận vật cúng dường dành cho chư Thiên, xứng đáng được tiếp đãi, xứng đáng nhận vật bố thí tôn giáo, xứng đáng được đảnh lễ chắp tay, và là ruộng phước tối thượng cho thế gian."
AN 3.98 Ngựa Thuần Chủng (3) Tatiyaājānīyasutta
"Này các Tỳ kheo, một con ngựa quý thuần chủng của hoàng gia có ba yếu tố thì xứng đáng với vua, phù hợp để phục vụ vua, và được coi là một yếu tố của vương quyền. Thế nào là ba? Đó là khi một con ngựa quý thuần chủng của hoàng gia đẹp đẽ, mạnh mẽ và nhanh nhẹn. Một con ngựa quý thuần chủng của hoàng gia với ba yếu tố này thì xứng đáng với vua,...
Cũng vậy, một vị Tỳ kheo có ba phẩm chất thì xứng đáng nhận vật cúng dường dành cho chư Thiên, xứng đáng được tiếp đãi, xứng đáng nhận vật bố thí tôn giáo, xứng đáng được đảnh lễ chắp tay, và là ruộng phước tối thượng cho thế gian. Thế nào là ba? Đó là khi một vị Tỳ kheo đẹp đẽ, mạnh mẽ và nhanh nhẹn.
Và thế nào là một vị Tỳ kheo đẹp đẽ? Đó là khi một vị Tỳ kheo có giới hạnh, sống thu thúc trong giới luật Tỳ kheo, có hạnh kiểm tốt và khất thực ở những nơi thích hợp. Thấy nguy hiểm trong lỗi nhỏ nhặt nhất, vị ấy giữ gìn các giới luật đã thọ nhận. Đó là cách một vị Tỳ kheo đẹp đẽ.
Và thế nào là một vị Tỳ kheo mạnh mẽ? Đó là khi một vị Tỳ kheo sống với tinh tấn được khơi dậy để từ bỏ các bất thiện pháp và đón nhận các thiện pháp. Vị ấy mạnh mẽ, kiên trì nỗ lực, không lơi lỏng khi phát triển các thiện pháp. Đó là cách một vị Tỳ kheo mạnh mẽ.
Và thế nào là một vị Tỳ kheo nhanh nhẹn? Đó là khi một vị Tỳ kheo chứng ngộ tâm giải thoát (freedom of heart / sự giải thoát của tâm) và tuệ giải thoát (freedom by wisdom / sự giải thoát bằng trí tuệ) không còn ô nhiễm ngay trong đời này. Và vị ấy an trú, tự mình chứng ngộ bằng thắng trí (insight / sự hiểu biết sâu sắc, trí tuệ trực tiếp) do sự đoạn tận các lậu hoặc (ending of defilements / sự chấm dứt hoàn toàn các ô nhiễm sâu kín, các dòng chảy ngầm của phiền não). Đó là cách một vị Tỳ kheo nhanh nhẹn.
Một vị Tỳ kheo với ba phẩm chất này thì xứng đáng nhận vật cúng dường dành cho chư Thiên, xứng đáng được tiếp đãi, xứng đáng nhận vật bố thí tôn giáo, xứng đáng được đảnh lễ chắp tay, và là ruộng phước tối thượng cho thế gian."
AN 3.99 Vải Gai Potthakasutta
"Vải gai thì xấu xí, sờ vào khó chịu, và vô giá trị dù là mới, đã dùng hay đã cũ mòn. Người ta dùng vải gai cũ mòn để cọ nồi, hoặc vứt nó vào đống rác.
Cũng vậy, nếu một Tỳ kheo hạ tọa (mới tu) mà phi giới hạnh, có phẩm hạnh xấu xa, thì đó là cách vị ấy xấu xí, Ta nói vậy. Người đó cũng xấu xí như vải gai. Nếu ngươi giao du, đồng hành, và phục vụ người đó, noi theo gương xấu của họ, điều đó sẽ dẫn đến tổn hại và đau khổ lâu dài cho ngươi. Đó là cách họ khó chịu khi tiếp xúc, Ta nói vậy. Người đó cũng khó chịu khi tiếp xúc như vải gai. Bất kỳ y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men và vật dụng cho người bệnh mà họ nhận được đều không mang lại nhiều kết quả hay lợi ích cho người cúng dường. Đó là cách họ vô giá trị, Ta nói vậy. Người đó cũng vô giá trị như vải gai.
Nếu một Tỳ kheo trung tọa (tu đã lâu) mà phi giới hạnh, có phẩm hạnh xấu xa, thì đó là cách vị ấy xấu xí, Ta nói vậy...
Nếu một Tỳ kheo thượng tọa (tu lâu năm, có uy tín) mà phi giới hạnh, có phẩm hạnh xấu xa, thì đó là cách vị ấy xấu xí, Ta nói vậy... Nếu ngươi giao du, đồng hành, và phục vụ người đó, noi theo gương xấu của họ, điều đó sẽ dẫn đến tổn hại và đau khổ lâu dài cho ngươi...
Nếu một vị thượng tọa như vậy nói năng giữa Tăng đoàn (Saṅgha / cộng đồng tu sĩ), các Tỳ kheo sẽ nói: 'Một kẻ ngu dốt bất tài như ông thì có gì để nói? Làm sao ông có thể nghĩ rằng mình có điều gì đáng nói chứ!' Người đó trở nên tức giận và khó chịu, rồi nói ra những điều khiến Tăng đoàn trục xuất họ, như thể họ vứt vải gai vào đống rác.
Vải lụa xứ Kāsi thì đẹp đẽ, sờ vào dễ chịu, và có giá trị dù là mới, đã dùng hay đã cũ mòn. Người ta dùng vải lụa Kāsi cũ mòn để gói đồ quý, hoặc đặt nó trong hộp đựng hương thơm.
Cũng vậy, nếu một Tỳ kheo hạ tọa có giới hạnh, có phẩm hạnh tốt đẹp, thì đó là cách vị ấy đẹp đẽ, Ta nói vậy. Người đó cũng đẹp đẽ như vải lụa Kāsi. Nếu ngươi giao du, đồng hành, và phục vụ một người như vậy, noi theo gương tốt của họ, điều đó sẽ dẫn đến lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho ngươi. Đó là cách họ dễ chịu khi tiếp xúc, Ta nói vậy. Người đó cũng dễ chịu khi tiếp xúc như vải lụa Kāsi. Bất kỳ y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men và vật dụng cho người bệnh mà họ nhận được đều mang lại nhiều kết quả và lợi ích lớn lao cho người cúng dường. Đó là cách họ có giá trị, Ta nói vậy. Người đó cũng có giá trị như vải lụa Kāsi.
Nếu một Tỳ kheo trung tọa có giới hạnh, có phẩm hạnh tốt đẹp, thì đó là cách vị ấy đẹp đẽ, Ta nói vậy...
Nếu một Tỳ kheo thượng tọa có giới hạnh, có phẩm hạnh tốt đẹp, thì đó là cách vị ấy đẹp đẽ, Ta nói vậy...
Nếu một vị thượng tọa như vậy nói năng giữa Tăng đoàn, các Tỳ kheo sẽ nói: 'Chư tôn đức, xin hãy im lặng! Vị thượng tọa đang nói về Giáo pháp và Giới luật.'
Vậy các ngươi nên tu tập như sau: 'Chúng ta sẽ giống như vải lụa Kāsi, không giống như vải gai.' Đó là cách các ngươi nên tu tập."
AN 3.100 Cục Muối Loṇakapallasutta
"Này các Tỳ kheo, giả sử các ngươi nói: 'Dù người này thực hiện một nghiệp (deed / hành động và kết quả của nó) như thế nào, họ cũng trải nghiệm nó theo cùng một cách.' Nếu vậy, phạm hạnh (spiritual life / đời sống tu hành thanh tịnh) không có giá trị, và sẽ không có cơ hội để chấm dứt hoàn toàn khổ đau.
Giả sử các ngươi nói: 'Dù người này thực hiện một nghiệp như thế nào, họ sẽ trải nghiệm kết quả phù hợp.' Nếu vậy, phạm hạnh có thể có giá trị, và có cơ hội để chấm dứt hoàn toàn khổ đau.
Hãy xét trường hợp một người làm một việc xấu nhỏ nhặt, khiến nó đưa họ vào địa ngục (hell / cõi khổ). Trong khi đó, một người khác làm cùng một việc xấu nhỏ nhặt đó, nhưng lại trải nghiệm nó ngay trong đời này, thì sẽ không còn sót lại chút nào, huống chi là nhiều.
Loại người nào làm một việc xấu nhỏ nhặt, nhưng nó đưa họ vào địa ngục? Một người chưa tu tập thân, giới, tâm, tuệ (developed their physical endurance, ethics, mind, or wisdom / rèn luyện thân thể, giữ gìn giới luật, phát triển tâm và trí tuệ). Đó là người có tâm lượng nhỏ hẹp (small-minded / người có tâm trí hạn hẹp) và tâm hồn thấp kém (mean-spirited / người có tâm hồn nhỏ nhen), sống trong đau khổ. Loại người đó làm một việc xấu nhỏ nhặt, nhưng nó đưa họ vào địa ngục.
Loại người nào làm cùng một việc xấu nhỏ nhặt đó, nhưng lại trải nghiệm nó ngay trong đời này, không còn sót lại chút nào, huống chi là nhiều? Một người đã tu tập thân, giới, tâm, và tuệ. Đó là người không có tâm lượng nhỏ hẹp, mà có tâm lượng rộng lớn (big-hearted / người có tâm trí rộng mở), sống vô lượng (living without limits / sống với tâm không giới hạn). Loại người này làm cùng một việc xấu nhỏ nhặt, nhưng lại trải nghiệm nó ngay trong đời này, không còn sót lại chút nào, huống chi là nhiều.
Giả sử một người bỏ một cục muối vào một cốc nước. Các ngươi nghĩ sao, này các Tỳ kheo? Cốc nước đó có trở nên mặn và không uống được không?"
"Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tại sao vậy? Vì chỉ có một ít nước trong cốc."
"Giả sử một người bỏ một cục muối vào sông Hằng. Các ngươi nghĩ sao, này các Tỳ kheo? Sông Hằng có trở nên mặn và không uống được không?"
"Thưa không, bạch Thế Tôn. Tại sao vậy? Vì sông Hằng là một khối nước mênh mông."
"Đây là trường hợp của một người làm một việc xấu nhỏ nhặt, nhưng nó đưa họ vào địa ngục. Trong khi đó, một người khác làm cùng một việc xấu nhỏ nhặt đó, nhưng lại trải nghiệm nó ngay trong đời này, không còn sót lại chút nào, huống chi là nhiều...
Hãy xét trường hợp một người bị bỏ tù vì ăn cắp nửa đồng, một đồng, hoặc một trăm đồng. Trong khi một người khác không bị bỏ tù vì ăn cắp nửa đồng, một đồng, hoặc một trăm đồng.
Loại người nào bị bỏ tù vì ăn cắp nửa đồng, một đồng, hoặc một trăm đồng? Một người nghèo khó, ít tài sản và của cải. Loại người đó bị bỏ tù vì ăn cắp nửa đồng, một đồng, hoặc một trăm đồng.
Loại người nào không bị bỏ tù vì ăn cắp nửa đồng, một đồng, hoặc một trăm đồng? Một người giàu có, sung túc và nhiều của cải. Loại người đó không bị bỏ tù vì ăn cắp nửa đồng, một đồng, hoặc một trăm đồng.
Đây là trường hợp của một người làm một việc xấu nhỏ nhặt, nhưng họ phải xuống địa ngục. Trong khi đó, một người khác làm cùng một việc xấu nhỏ nhặt đó, nhưng lại trải nghiệm nó ngay trong đời này, không còn sót lại chút nào, huống chi là nhiều...
Giống như một người buôn cừu hoặc đồ tể. Họ có thể xử tử, bỏ tù, phạt tiền, hoặc trừng phạt bằng cách khác một người ăn cắp của họ, nhưng không thể làm vậy với người khác.
Loại người nào họ có thể trừng phạt? Một người nghèo khó, ít tài sản và của cải. Đó là loại người họ có thể trừng phạt.
Loại người nào họ không thể trừng phạt? Một vị vua hoặc đại thần của vua, người giàu có, sung túc và nhiều của cải. Đó là loại người họ không thể trừng phạt. Thực tế, tất cả những gì họ có thể làm là chắp tay và cầu xin: 'Thưa ngài, xin vui lòng trả lại cừu cho tôi hoặc trả tiền cho tôi.'
Đây là trường hợp của một người làm một việc xấu nhỏ nhặt, nhưng nó đưa họ vào địa ngục. Trong khi đó, một người khác làm cùng một việc xấu nhỏ nhặt đó, nhưng lại trải nghiệm nó ngay trong đời này, không còn sót lại chút nào, huống chi là nhiều...
Này các Tỳ kheo, giả sử các ngươi nói: 'Dù người này thực hiện một nghiệp như thế nào, họ cũng trải nghiệm nó theo cùng một cách.' Nếu vậy, phạm hạnh không thể được sống, và sẽ không có cơ hội để chấm dứt hoàn toàn khổ đau.
Giả sử các ngươi nói: 'Dù người này thực hiện một nghiệp như thế nào, họ cũng trải nghiệm kết quả như phù hợp.' Nếu vậy, phạm hạnh có thể được sống, và có cơ hội để chấm dứt hoàn toàn khổ đau."
AN 3.101 Người Đãi Vàng Paṁsudhovakasutta
"Vàng nguyên khai (native gold / vàng chưa tinh luyện) có những cấu uế (corruptions / tạp chất, ô nhiễm) thô: cát, đất, và sỏi. Người đãi vàng (panner / người làm nghề đãi vàng) hoặc người học việc của họ đổ vàng vào máng đãi, nơi họ rửa, đãi và làm sạch nó. Khi những thứ đó đã được loại bỏ, còn lại những cấu uế trung bình trong vàng nguyên khai: sạn mịn và cát thô. Người đãi vàng lại rửa nó lần nữa. Khi những thứ đó đã được loại bỏ, còn lại những cấu uế tinh vi trong vàng nguyên khai: cát mịn và bụi đen. Người đãi vàng lại rửa nó lần nữa. Khi những thứ đó đã được loại bỏ, chỉ còn lại vàng cám. Thợ kim hoàn (goldsmith / người làm đồ vàng bạc) hoặc người học việc của họ đặt vàng nguyên khai vào nồi nấu kim loại (crucible / dụng cụ để nung chảy kim loại), nơi họ thổi, nấu chảy và luyện nó. Vàng nguyên khai vẫn chưa lắng đọng và xỉ vẫn chưa hoàn toàn biến mất. Nó chưa mềm dẻo, dễ uốn nắn, sáng chói, nhưng còn giòn (pliable, workable, radiant, brittle / các tính chất của vàng sau khi luyện) và chưa hoàn toàn sẵn sàng để chế tác. Nhưng người thợ kim hoàn tiếp tục thổi, nấu chảy và luyện nó. Vàng nguyên khai trở nên mềm dẻo, dễ uốn nắn, sáng chói, không còn giòn, và sẵn sàng để chế tác. Sau đó, người thợ kim hoàn có thể chế tác thành công bất kỳ loại trang sức nào họ muốn, dù là vòng tay, hoa tai, dây chuyền, hay vòng hoa vàng.
Cũng vậy, một vị Tỳ kheo chuyên tâm tu tập tăng thượng tâm (higher mind / tâm học cao hơn, sự phát triển tâm) có những cấu uế thô: thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành (bad bodily, verbal, and mental conduct / hành vi xấu ác qua thân, lời, ý). Một vị Tỳ kheo chân thành, có năng lực sẽ từ bỏ, loại bỏ, tiêu trừ và xóa sạch chúng.
Khi chúng đã được từ bỏ và loại bỏ, còn lại những cấu uế trung bình: dục tầm, sân tầm, hại tầm (sensual, malicious, or cruel thoughts / suy nghĩ về dục vọng, sân hận, làm hại). Một vị Tỳ kheo chân thành, có năng lực sẽ từ bỏ, loại bỏ, tiêu trừ và xóa sạch chúng.
Khi chúng đã được từ bỏ và loại bỏ, còn lại những cấu uế tinh vi: gia tộc tầm, quốc độ tầm, danh tiếng tầm (thoughts of family, country, and status / suy nghĩ về gia đình, quê hương, danh tiếng). Một vị Tỳ kheo chân thành, có năng lực sẽ từ bỏ, loại bỏ, tiêu trừ và xóa sạch chúng.
Khi chúng đã được từ bỏ và loại bỏ, chỉ còn lại pháp tầm (thoughts about the teaching / suy nghĩ về Giáo pháp). Trạng thái định (immersion / sự tập trung, thiền định) đó chưa an tĩnh, chưa siêu việt, chưa thanh tịnh, chưa hợp nhất, mà được duy trì bằng sự đè nén, ép buộc (forceful suppression / sự cố gắng chế ngự).
Nhưng sẽ đến lúc tâm ấy lắng dịu nội tại; nó an định, hợp nhất, và nhập vào định. Trạng thái định đó an tĩnh, siêu việt, thanh tịnh và hợp nhất, không được duy trì bằng sự đè nén, ép buộc. Vị ấy hướng tâm để chứng ngộ bằng thắng trí mọi pháp có thể được chứng ngộ bằng thắng trí; và vị ấy có khả năng chứng ngộ những pháp đó, vì mỗi pháp đều nằm trong tầm khả năng.
Nếu vị ấy muốn: 'Mong rằng ta có thể vận dụng nhiều loại thần thông (psychic power / năng lực siêu nhiên): phân thân và hợp lại thành một; hiện ra và biến mất; đi xuyên qua tường, thành lũy, hay núi non không bị cản trở như đi trong hư không; lặn xuống và trồi lên khỏi mặt đất như trong nước; đi trên mặt nước như trên đất liền; bay đi trong không trung khi đang ngồi kiết già như chim; chạm và vuốt ve mặt trời và mặt trăng, những vật thể hùng mạnh và quyền năng như vậy, bằng tay của mình; điều khiển thân thể của mình đến tận cõi Phạm thiên.' Vị ấy có khả năng chứng ngộ những điều này, vì mỗi điều đều nằm trong tầm khả năng.
Nếu vị ấy muốn: 'Với thiên nhĩ thông (clairaudience / khả năng nghe được âm thanh cõi trời, người) thanh tịnh và siêu phàm, mong rằng ta có thể nghe được cả hai loại âm thanh, của loài người và chư thiên, dù gần hay xa.' Vị ấy có khả năng chứng ngộ những điều này, vì mỗi điều đều nằm trong tầm khả năng.
Nếu vị ấy muốn: 'Mong rằng ta có thể hiểu được tâm của các chúng sinh và cá nhân khác, thấu hiểu chúng bằng tâm của mình (tha tâm thông - understand the minds of other beings / khả năng biết tâm người khác). Mong rằng ta có thể hiểu tâm có tham (mind with greed / tâm chứa đựng tham) là "tâm có tham", và tâm không tham là "tâm không tham"; tâm có sân (mind with hate / tâm chứa đựng sân) là "tâm có sân", và tâm không sân là "tâm không sân"; tâm có si (mind with delusion / tâm chứa đựng si) là "tâm có si", và tâm không si là "tâm không si"; tâm bị thu rút (constricted mind / tâm trạng co cụm, hạn hẹp) là "tâm bị thu rút", và tâm bị phân tán (scattered mind / tâm trạng tán loạn) là "tâm bị phân tán"; tâm quảng đại (expansive mind / tâm trạng rộng lớn, bao la) là "tâm quảng đại", và tâm không quảng đại (unexpansive mind / tâm trạng không rộng lớn) là "tâm không quảng đại"; tâm hữu thượng (mind that is not supreme / tâm còn giới hạn) là "tâm hữu thượng", và tâm vô thượng (mind that is supreme / tâm không gì hơn) là "tâm vô thượng"; tâm có định (mind immersed in samādhi / tâm có sự tập trung) là "tâm có định", và tâm không có định (mind not immersed in samādhi / tâm không có sự tập trung) là "tâm không có định"; tâm giải thoát (freed mind / tâm đã được giải thoát) là "tâm giải thoát", và tâm không giải thoát (unfreed mind / chưa được giải thoát) là "tâm không giải thoát".' Vị ấy có khả năng chứng ngộ những điều này, vì mỗi điều đều nằm trong tầm khả năng.
Nếu vị ấy muốn: 'Mong rằng ta có thể nhớ lại nhiều đời sống quá khứ (túc mạng thông - recollect many kinds of past lives / khả năng nhớ lại các kiếp trước). Đó là: một, hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, một trăm, một nghìn, một trăm nghìn lần tái sinh; nhiều kiếp (eons / khoảng thời gian rất dài) thế giới thành, nhiều kiếp thế giới trụ, nhiều kiếp thế giới hoại và không. Mong rằng ta nhớ được: "Ở đó, ta tên là thế này, dòng họ là thế kia, trông như thế này, và đó là thức ăn của ta. Đây là cách ta cảm nhận lạc và khổ, và đó là cách cuộc đời ta kết thúc. Khi ta qua đời từ nơi đó, ta tái sinh ở một nơi khác. Ở đó, ta cũng tên là thế này, dòng họ là thế kia, trông như thế này, và đó là thức ăn của ta. Đây là cách ta cảm nhận lạc và khổ, và đó là cách cuộc đời ta kết thúc. Khi ta qua đời từ nơi đó, ta tái sinh ở đây." Mong rằng ta nhớ lại nhiều đời sống quá khứ của mình, với các đặc điểm và chi tiết.' Vị ấy có khả năng chứng ngộ những điều này, vì mỗi điều đều nằm trong tầm khả năng.
Nếu vị ấy muốn: 'Với thiên nhãn thông (clairvoyance / khả năng nhìn thấy các cõi giới, chúng sinh) thanh tịnh và siêu phàm, mong rằng ta có thể thấy các chúng sinh (sentient beings / các loài hữu tình) chết đi và tái sinh—hạ liệt và cao quý, xinh đẹp và xấu xí, ở nơi tốt đẹp hay nơi đau khổ—và hiểu được chúng sinh tái sinh như thế nào tùy theo nghiệp của họ: "Những chúng sinh thân mến này đã làm điều xấu qua thân, khẩu, và ý. Họ phỉ báng các bậc Thánh (noble ones / những vị đã chứng đắc đạo quả); họ có tà kiến; và họ đã chọn hành động theo tà kiến đó. Khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, họ tái sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục (place of loss, a bad place, the underworld, hell / các cõi khổ). Tuy nhiên, những chúng sinh thân mến này đã làm điều tốt qua thân, khẩu, và ý. Họ không bao giờ phỉ báng các bậc Thánh; họ có chánh kiến; và họ đã chọn hành động theo chánh kiến đó. Khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, họ tái sinh vào thiện thú, thiên giới (good place, a heavenly realm / các cõi lành, cõi trời)." Và như vậy, với thiên nhãn thông thanh tịnh và siêu phàm, mong rằng ta có thể thấy các chúng sinh chết đi và tái sinh—hạ liệt và cao quý, xinh đẹp và xấu xí, ở nơi tốt đẹp hay nơi đau khổ. Và mong rằng ta hiểu được chúng sinh tái sinh như thế nào tùy theo nghiệp của họ.' Vị ấy có khả năng chứng ngộ những điều này, vì mỗi điều đều nằm trong tầm khả năng.
Nếu vị ấy muốn: 'Mong rằng ta chứng ngộ tâm giải thoát và tuệ giải thoát không còn ô nhiễm ngay trong đời này, và an trú, tự mình chứng ngộ bằng thắng trí do sự đoạn tận các lậu hoặc.' Vị ấy có khả năng chứng ngộ những điều này, vì mỗi điều đều nằm trong tầm khả năng."
AN 3.102 Nền Tảng Nimittasutta
"Này các Tỳ kheo, một vị Tỳ kheo chuyên tâm tu tập tăng thượng tâm nên thỉnh thoảng chú tâm vào ba nền tảng (basis / đối tượng, nền tảng): nền tảng định (basis of immersion / nền tảng của sự tập trung), nền tảng tinh tấn (basis of exertion / nền tảng của sự nỗ lực), và nền tảng xả (basis of equanimity / nền tảng của sự bình tâm). Xả (equanimity / sự giữ tâm quân bình, không dao động).
Nếu một vị Tỳ kheo chuyên tâm tu tập tăng thượng tâm chỉ chú tâm vào nền tảng định, tâm của vị ấy có khả năng nghiêng về giải đãi (laziness / sự lười biếng, thụ động).
Nếu vị ấy chỉ chú tâm vào nền tảng tinh tấn, tâm của vị ấy có khả năng nghiêng về trạo cử (restlessness / sự bồn chồn, không yên).
Nếu vị ấy chỉ chú tâm vào nền tảng xả, tâm của vị ấy có khả năng không nhập định đúng mức để đoạn tận các lậu hoặc.
Nhưng khi một vị Tỳ kheo chuyên tâm tu tập tăng thượng tâm thỉnh thoảng chú tâm vào nền tảng định, nền tảng tinh tấn, và nền tảng xả, tâm của vị ấy trở nên mềm dẻo, dễ uốn nắn, sáng chói, không còn giòn, và đã nhập định đúng mức để đoạn tận các lậu hoặc.
Giống như khi một thợ kim hoàn hoặc người học việc của thợ kim hoàn chuẩn bị lò rèn, nung nồi nấu kim loại, dùng kẹp gắp một ít vàng nguyên khai và đặt vào nồi nấu. Thỉnh thoảng họ thổi bễ, thỉnh thoảng họ rưới nước vào, và thỉnh thoảng họ chỉ quan sát. Nếu họ chỉ thổi bễ, vàng nguyên khai có khả năng bị cháy. Nếu họ chỉ rưới nước vào, vàng nguyên khai có khả năng bị nguội đi. Nếu họ chỉ quan sát, vàng nguyên khai có khả năng không được xử lý đúng cách. Nhưng khi người thợ kim hoàn đó thỉnh thoảng thổi bễ, thỉnh thoảng rưới nước vào, và thỉnh thoảng quan sát, vàng nguyên khai đó trở nên mềm dẻo, dễ uốn nắn, sáng chói, không còn giòn, và sẵn sàng để chế tác. Sau đó, người thợ kim hoàn có thể chế tác thành công bất kỳ loại trang sức nào họ muốn, dù là vòng tay, hoa tai, dây chuyền, hay vòng hoa vàng.
Cũng vậy, một vị Tỳ kheo chuyên tâm tu tập tăng thượng tâm nên thỉnh thoảng chú tâm vào ba nền tảng: nền tảng định, nền tảng tinh tấn, và nền tảng xả...
Khi một vị Tỳ kheo chuyên tâm tu tập tăng thượng tâm thỉnh thoảng chú tâm vào nền tảng định, nền tảng tinh tấn, và nền tảng xả, tâm của vị ấy trở nên mềm dẻo, dễ uốn nắn, sáng chói, không còn giòn, và đã nhập định đúng mức để đoạn tận các lậu hoặc. Vị ấy hướng tâm để chứng ngộ bằng thắng trí mọi pháp có thể được chứng ngộ bằng thắng trí; và vị ấy có khả năng chứng ngộ những pháp đó, vì mỗi pháp đều nằm trong tầm khả năng.
Nếu vị ấy muốn: 'Mong rằng ta có thể vận dụng nhiều loại thần thông' ...
'Với thiên nhĩ thông thanh tịnh và siêu phàm, mong rằng ta có thể nghe được cả hai loại âm thanh, của loài người và chư thiên, dù gần hay xa.' ... 'Mong rằng ta có thể nhớ lại nhiều đời sống quá khứ.' ... 'Với thiên nhãn thông thanh tịnh và siêu phàm, mong rằng ta có thể thấy các chúng sinh chết đi và tái sinh.' ... 'Mong rằng ta chứng ngộ tâm giải thoát và tuệ giải thoát không còn ô nhiễm ngay trong đời này, và an trú, tự mình chứng ngộ bằng thắng trí do sự đoạn tận các lậu hoặc.' Vị ấy có khả năng chứng ngộ những điều này, vì mỗi điều đều nằm trong tầm khả năng."