Skip to content

Phẩm Uruvelā (Ưu Lâu Tần Loa)

AN 4.21 Tại Uruvelā (1) Paṭhamauruvelasutta

Như vầy tôi nghe. Một thời Đức Phật trú gần Sāvatthī (Xá Vệ), tại Jetavana (Kỳ Viên), tịnh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Tại đấy, Đức Phật gọi các vị Tỳ kheo (Mendicants / vị khất sĩ, vị sư): "Này các Tỳ kheo!"

"Bạch Thế Tôn," (Venerable sir / Kính bạch Ngài) các vị ấy vâng đáp. Đức Phật nói thế này:

"Này các Tỳ kheo, thuở xưa, khi Ta mới giác ngộ (awakened / tỉnh thức hoàn toàn), Ta trú ở Uruvelā (Ưu Lâu Tần Loa), dưới gốc cây banyan của người chăn dê, bên bờ sông Nerañjarā (Ni Liên Thiền). Khi đang độc cư thiền tịnh, tâm tư này khởi lên nơi Ta: 'Người sống không kính trọng, không tôn sùng thì thật khổ đau. Ta nên đảnh lễ, tôn kính và nương tựa vị Sa môn (ascetic / vị tu sĩ) hay Bà la môn (brahmin / người thuộc giai cấp tu sĩ Bà la môn giáo) nào đây?'

Rồi Ta suy nghĩ: 'Ta sẽ đảnh lễ, tôn kính và nương tựa một vị Sa môn hay Bà la môn khác để hoàn thiện trọn vẹn phần giới (ethics / đạo đức, giới hạnh), nếu giới của Ta chưa hoàn thiện. Nhưng Ta không thấy một vị Sa môn hay Bà la môn nào khác trong thế giới này—với chư thiên (gods / các vị trời), Ma vương (Māras / các loài ma), và Phạm thiên (Divinities / các vị trời Phạm thiên), trong chúng sanh (population / chúng sinh) này với các Sa môn và Bà la môn, các vị trời và loài người—lại thành tựu giới hạnh hơn Ta, người mà Ta nên đảnh lễ, tôn kính và nương tựa.

Ta sẽ đảnh lễ, tôn kính và nương tựa một vị Sa môn hay Bà la môn khác để hoàn thiện trọn vẹn phần định (immersion / thiền định, sự tập trung), nếu định của Ta chưa hoàn thiện. Nhưng Ta không thấy một vị Sa môn hay Bà la môn nào khác ... lại thành tựu định hơn Ta ...

Ta sẽ đảnh lễ, tôn kính và nương tựa một vị Sa môn hay Bà la môn khác để hoàn thiện trọn vẹn phần tuệ (wisdom / trí tuệ), nếu tuệ của Ta chưa hoàn thiện. Nhưng Ta không thấy một vị Sa môn hay Bà la môn nào khác trong thế giới này ... lại thành tựu tuệ hơn Ta ...

Ta sẽ đảnh lễ, tôn kính và nương tựa một vị Sa môn hay Bà la môn khác để hoàn thiện trọn vẹn phần giải thoát (freedom / sự giải thoát), nếu giải thoát của Ta chưa hoàn thiện. Nhưng Ta không thấy một vị Sa môn hay Bà la môn nào khác trong thế giới này ... lại thành tựu giải thoát hơn Ta ...'

Rồi Ta suy nghĩ: 'Vậy tại sao Ta không đảnh lễ, tôn kính và nương tựa chính Pháp (teaching / giáo pháp) mà Ta đã giác ngộ?'

Và rồi, Phạm thiên Sahampati (Divinity Sahampati / vị trời Phạm thiên tên Sahampati), biết được dòng tư tưởng của Ta, liền biến mất từ cõi Phạm thiên (realm of divinity / thế giới của các vị trời Phạm thiên) và hiện ra trước mặt Ta, dễ dàng như người lực sĩ duỗi hay co cánh tay. Vị ấy đắp y lệch một bên vai, chắp tay hướng về Ta và nói: 'Thật đúng vậy, Thế Tôn (Blessed One / Đức Thế Tôn)! Thật đúng vậy, Thiện Thệ (Holy One / Bậc Thiện Thệ)! Tất cả các bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác (perfected ones, fully awakened Buddhas / các vị đã hoàn thiện, các vị Phật giác ngộ hoàn toàn) trong quá khứ đều đã đảnh lễ, tôn kính và nương tựa chính Pháp này. Tất cả các bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác trong tương lai cũng sẽ đảnh lễ, tôn kính và nương tựa chính Pháp này. Kính mong Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác hiện tại, cũng hãy đảnh lễ, tôn kính và nương tựa chính Pháp này.'

Đó là những gì Phạm thiên Sahampati đã nói. Rồi vị ấy nói tiếp:

'Tất cả chư Phật, dù trong quá khứ,
Chư Phật của tương lai,
Và Đức Phật hiện tại---
Bậc đoạn trừ sầu muộn cho bao người---

Tôn kính Chánh pháp (true teaching / giáo pháp chân chính)
Các Ngài đã sống, đang sống,
Và cũng sẽ sống như vậy.
Đây là bản tánh của chư Phật.

Vì thế, người quan tâm đến hạnh phúc tự thân,
Và muốn trở thành bậc tối thượng,
Nên tôn kính Chánh pháp,
Luôn nhớ lời chư Phật dạy.'

Đó là những gì Phạm thiên Sahampati đã nói. Rồi vị ấy đảnh lễ và đi quanh Ta theo chiều bên phải một cách kính trọng, trước khi biến mất ngay tại đó. Bấy giờ, biết được lời thỉnh cầu của vị Phạm thiên và điều phù hợp với chính mình, Ta đã đảnh lễ, tôn kính và nương tựa chính Pháp mà Ta đã giác ngộ. Và vì Tăng đoàn (Saṅgha / cộng đồng tu sĩ) cũng đã đạt đến sự vĩ đại, Ta cũng tôn kính Tăng đoàn."

AN 4.22 Tại Uruvelā (2) Dutiyauruvelasutta

"Này các Tỳ kheo, thuở xưa, khi Ta mới giác ngộ, Ta trú ở Uruvelā, dưới gốc cây banyan của người chăn dê, bên bờ sông Nerañjarā. Khi ấy, có nhiều vị Bà la môn già cả—những bậc cao niên, lớn tuổi, đã sống lâu năm và đến giai đoạn cuối của cuộc đời—đến gặp Ta và chào hỏi thăm viếng.

Sau khi chào hỏi và chuyện trò xã giao xong, họ ngồi xuống một bên và nói với Ta: 'Thưa ông Gotama, chúng tôi nghe nói rằng:

"Sa môn Gotama không cúi chào các vị Bà la môn già cả, cao niên, lớn tuổi, đã sống lâu năm và đến giai đoạn cuối của cuộc đời; cũng không đứng dậy chào đón hay mời họ ngồi." Và điều này quả thật đúng như vậy, vì ông Gotama không cúi chào các vị Bà la môn già cả, cao niên, lớn tuổi, đã sống lâu năm và đến giai đoạn cuối của cuộc đời; cũng không đứng dậy chào đón hay mời họ ngồi. Thưa ông Gotama, điều này là không thích hợp.'

Rồi Ta suy nghĩ: 'Các vị tôn giả này không biết thế nào là một trưởng lão (senior / bậc lớn tuổi, bậc trưởng thượng), hay những phẩm chất nào làm nên một bậc trưởng lão.'

Này các Tỳ kheo, giả sử có người tám mươi, chín mươi hay một trăm tuổi. Nhưng lời nói của người ấy không đúng lúc, sai sự thật, vô nghĩa, và đi ngược lại giáo pháp hay giới luật. Người ấy nói những điều không đúng thời điểm, vô giá trị, không hợp lý, lan man, và không lợi ích. Khi ấy, người đó sẽ được xem là một 'trưởng lão trẻ con'.

Bây giờ, giả sử có người còn trẻ, thanh niên, tóc đen nhánh, đang độ xuân xanh, trong thời kỳ sung mãn nhất của cuộc đời. Nhưng lời nói của người ấy đúng lúc, đúng sự thật, có ý nghĩa, và phù hợp với giáo pháp và giới luật. Người ấy nói những điều đúng thời điểm, có giá trị, hợp lý, súc tích, và lợi ích. Khi ấy, người đó sẽ được xem là một 'trưởng lão sáng suốt'.

Có bốn phẩm chất này làm nên một bậc trưởng lão. Bốn phẩm chất nào? Một vị Tỳ kheo có giới hạnh, sống chế ngự trong giới luật (monastic code / quy tắc tu viện, giới bổn), hành xử đúng mực và khất thực ở nơi thích hợp (resorting for alms in suitable places / đi khất thực ở nơi phù hợp). Thấy sự nguy hiểm trong lỗi nhỏ nhặt nhất (seeing danger in the slightest fault), vị ấy giữ gìn các học giới đã thọ nhận.

Vị ấy là người đa văn (learned / học rộng), thọ trì những gì đã học (remembering and keeping what they've learned / ghi nhớ và gìn giữ những gì đã học). Những giáo pháp này toàn hảo ở phần đầu, toàn hảo ở phần giữa, và toàn hảo ở phần cuối (good in the beginning, good in the middle, and good in the end), có ý nghĩa và văn cú rõ ràng (meaningful and well-phrased), mô tả một phạm hạnh (spiritual practice / đời sống tu tập thanh tịnh) hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh (entirely full and pure). Vị ấy rất thông thạo những giáo pháp như vậy, ghi nhớ chúng, tụng đọc lại (rehearsing them), suy nghiệm trong tâm (mentally scrutinizing them), và thông hiểu bằng trí tuệ (comprehending them theoretically / hiểu rõ về mặt lý thuyết).

Vị ấy chứng đắc bốn thiền na (absorptions / các tầng thiền)—những hiện tại lạc trú thuộc tăng thượng tâm (blissful meditations in this life that belong to the higher mind / sự an trú trong niềm vui ngay trong đời này thuộc về tâm cao thượng)—bất cứ khi nào muốn, không khó khăn, không trở ngại.

Vị ấy chứng ngộ tâm giải thoát (freedom of heart / sự giải thoát của tâm) và tuệ giải thoát (freedom by wisdom / sự giải thoát bằng trí tuệ) vô lậu ngay trong đời này. Và vị ấy an trú trong trạng thái đó sau khi đã tự mình chứng ngộ với thắng trí của mình (with their own insight / bằng sự hiểu biết trực tiếp của chính mình) nhờ sự đoạn tận các lậu hoặc (ending of defilements / sự chấm dứt các phiền não ô nhiễm).

Đây là bốn phẩm chất làm nên một bậc trưởng lão.

Kẻ tâm trí bất an
Nói nhiều lời vô nghĩa.
Tư tưởng không ổn định,
Và không thích Chánh pháp.
Kẻ ấy xa rời bậc trưởng lão, với tà kiến
Và thiếu tôn trọng người khác.

Nhưng người thành tựu giới hạnh,
Đa văn và khéo nói, bậc trí tuệ ấy
Chế ngự khi tiếp xúc các pháp,
Thấu hiểu ý nghĩa bằng trí tuệ.

Vượt qua mọi sự vật,
Từ ái, khéo nói,
Đã từ bỏ sinh tử,
Và hoàn thành phạm hạnh.

Đó là người Ta gọi là trưởng lão,
Người không còn lậu hoặc (defilements / phiền não, ô nhiễm).
Với sự đoạn tận các lậu hoặc, một Tỳ kheo
Được tuyên bố là 'trưởng lão'."

AN 4.23 Thế Gian Lokasutta

"Này các Tỳ kheo, thế gian đã được Như Lai (Realized One / Bậc Như Lai, danh hiệu của Phật) liễu tri; và Ngài đã ly tham (detached / không còn tham ái, tách rời) khỏi thế gian. Tập khởi của thế gian (origin of the world / nguyên nhân sinh khởi của thế gian) đã được Như Lai liễu tri; và Ngài đã từ bỏ tập khởi của thế gian. Đoạn diệt của thế gian (cessation of the world / sự chấm dứt của thế gian) đã được Như Lai liễu tri; và Ngài đã chứng ngộ đoạn diệt của thế gian. Con đường đưa đến đoạn diệt của thế gian (practice that leads to the cessation of the world / phương pháp thực hành dẫn đến sự chấm dứt của thế gian) đã được Như Lai liễu tri; và Ngài đã tu tập con đường đưa đến đoạn diệt của thế gian.

Trong thế giới này—với chư thiên, Ma vương, và Phạm thiên, trong chúng sanh này với các Sa môn và Bà la môn, các vị trời và loài người—bất cứ những gì được thấy, nghe, suy nghĩ, nhận biết, đạt được, tìm cầu, và khám phá bởi tâm trí, tất cả những điều đó đã được Như Lai liễu tri. Đó là lý do Ngài được gọi là 'Như Lai'.

Từ đêm Như Lai chứng ngộ vô thượng chánh đẳng giác (supreme perfect awakening / sự giác ngộ hoàn hảo tối thượng) cho đến đêm Ngài nhập Niết bàn (fully extinguished / đạt đến sự tịch diệt hoàn toàn)—trong vô dư y Niết bàn giới (element of extinguishment with no residue / Niết bàn giới không còn dư thừa)—mọi điều Ngài nói, phát biểu, và diễn đạt đều là chân thật, không khác đi. Đó là lý do Ngài được gọi là 'Như Lai'.

Như Lai nói như thế nào, làm như thế ấy; làm như thế nào, nói như thế ấy. Vì như vậy, đó là lý do Ngài được gọi là 'Như Lai'.

Trong thế giới này—với chư thiên, Ma vương, và Phạm thiên, trong chúng sanh này với các Sa môn và Bà la môn, các vị trời và loài người—Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến thắng (vanquisher, the unvanquished), bậc thấy biết tất cả (universal seer), bậc tự chủ (wielder of power). Đó là lý do Ngài được gọi là 'Như Lai'.

Trực tiếp biết rõ thế gian như nó là,
Và mọi thứ trong đó,
Ngài ly tham khỏi toàn thế gian,
Không dính mắc với toàn thế gian.

Bậc tinh cần ấy là nhà vô địch
Người giải thoát khỏi mọi ràng buộc.
Ngài đã đạt đến sự an tịnh tối thượng:
Niết bàn (extinguishment / Niết bàn, sự tịch diệt), không sợ hãi từ bất cứ đâu.

Ngài là Đức Phật, với các lậu hoặc đã tận,
Không phiền não, với các nghi ngờ đã đoạn trừ.
Ngài đã đạt đến sự đoạn tận mọi nghiệp (end of all deeds / sự chấm dứt mọi hành động tạo tác),
Giải thoát với sự đoạn tận các chấp thủ (end of attachments / sự chấm dứt mọi sự bám víu).

Thế Tôn ấy là Đức Phật,
Ngài là sư tử tối thượng,
Trong toàn thế giới với chư thiên,
Ngài chuyển bánh xe pháp thiêng liêng.

Và vì thế, những chư thiên và loài người,
Những ai đã đến quy y (refuge / nương tựa) Phật,
Cùng nhau tụ hội và tôn kính Ngài,
Bậc tâm hồn vĩ đại và không sợ hãi:

'Đã được điều phục, Ngài là bậc điều phục tối cao,
An tịnh, Ngài là bậc thấy biết giữa những người an tịnh,
Giải thoát, Ngài là bậc giải thoát hàng đầu,
Đã vượt qua, Ngài là bậc dẫn đường xuất sắc nhất.'

Và vì thế họ tôn kính Ngài,
Bậc tâm hồn vĩ đại và không sợ hãi.
Trong thế giới với chư thiên,
Ngài không có đối thủ (rival)."

AN 4.24 Tại Tịnh Xá Kāḷaka Kāḷakārāmasutta

Một thời Đức Phật trú gần Sāketa (Sa Kỳ), tại tịnh xá Kāḷaka. Tại đấy, Đức Phật gọi các vị Tỳ kheo: "Này các Tỳ kheo!"

"Bạch Thế Tôn," các vị ấy vâng đáp. Đức Phật nói thế này:

"Trong thế giới này—với chư thiên, Ma vương, và Phạm thiên, trong chúng sanh này với các Sa môn và Bà la môn, các vị trời và loài người—bất cứ những gì được thấy, nghe, suy nghĩ, nhận biết, đạt được, tìm cầu, và khám phá bởi tâm trí: điều đó Ta biết.

Trong thế giới này—với chư thiên, Ma vương, và Phạm thiên, trong chúng sanh này với các Sa môn và Bà la môn, các vị trời và loài người—bất cứ những gì được thấy, nghe, suy nghĩ, nhận biết, đạt được, tìm cầu, và khám phá bởi tâm trí: điều đó Ta đã thấu suốt. Điều đó đã được Như Lai biết, nhưng Như Lai không lệ thuộc vào nó.

Nếu Ta nói rằng 'Ta không biết ... thế giới với chư thiên', Ta sẽ nói dối.

Nếu Ta nói rằng 'Ta vừa biết vừa không biết ... thế giới với chư thiên', điều đó cũng giống như vậy.

Nếu Ta nói rằng 'Ta không biết cũng không phải không biết ... thế giới với chư thiên', đó sẽ là lỗi của Ta.

Vì vậy, Như Lai thấy cái cần thấy, nhưng không tưởng tri (conceive / nhận thức qua khái niệm, tưởng tượng) cái được thấy, không tưởng tri cái không được thấy, không tưởng tri cái sẽ được thấy, và không tưởng tri người thấy. Ngài nghe cái cần nghe, nhưng không tưởng tri cái được nghe, không tưởng tri cái không được nghe, không tưởng tri cái sẽ được nghe, và không tưởng tri người nghe. Ngài suy nghĩ cái cần suy nghĩ, nhưng không tưởng tri cái được suy nghĩ, không tưởng tri cái không được suy nghĩ, không tưởng tri cái sẽ được suy nghĩ, và không tưởng tri người suy nghĩ. Ngài biết cái cần biết, nhưng không tưởng tri cái được biết, không tưởng tri cái không được biết, không tưởng tri cái sẽ được biết, và không tưởng tri người biết.

Vì Như Lai không bị lay động (unaffected) giữa những sự vật có thể được thấy, nghe, suy nghĩ, và biết, Ngài là bậc không bị lay động. Và Ta nói rằng không có sự vững chãi nào tốt đẹp hơn hay tinh tế hơn thế này.

Người như vậy không chấp lấy bất cứ điều gì
Được thấy, nghe, hay nghĩ là chân thật hay giả dối tối hậu.
Nhưng những người khác lại chấp thủ, nghĩ rằng đó là sự thật,
Bị giới hạn bởi những định kiến của họ.

Vì đã thấy mũi tên (dart / phiền não, sự đau khổ) này
Mà người đời bị dính mắc và bám víu,
Nói rằng, 'Tôi biết, tôi thấy, nó là như vậy',
Các bậc Như Lai không có sự chấp thủ."

AN 4.25 Đời Sống Phạm Hạnh Brahmacariyasutta

"Này các Tỳ kheo, phạm hạnh (spiritual life / đời sống phạm hạnh, đời sống tu tập thanh tịnh) này không phải được sống vì mục đích lừa dối người (deceiving people) hay mơn trớn người (flattering them), cũng không phải vì lợi ích của lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng (possessions, honor, or popularity), cũng không phải vì lợi ích hơn thua trong tranh luận (winning debates), cũng không phải với suy nghĩ: 'Để mọi người biết đến ta!' Đời sống phạm hạnh này được sống vì mục đích sự chế ngự (restraint / sự tự kiểm soát, phòng hộ), sự từ bỏ (giving up / sự xả ly), sự ly tham (fading away / sự nhạt dần tham ái), và sự đoạn diệt (cessation / sự chấm dứt).

Đức Phật dạy đời sống phạm hạnh
Không phải vì truyền thống (tradition),
Mà vì sự chế ngự và từ bỏ,
Và vì nó đưa đến Niết bàn (culminates in extinguishment).
Đây là con đường được các bậc đại nhân (great souls) theo đuổi,
Các bậc đại tiên (great seers).

Những ai thực hành nó
Như đã được Đức Phật dạy,
Làm theo lời thầy dạy (teacher's bidding),
Sẽ chấm dứt khổ đau."

AN 4.26 Kẻ Lừa Đảo Kuhasutta

"Này các Tỳ kheo, những Tỳ kheo là kẻ lừa đảo (deceivers) và kẻ mơn trớn (flatterers), kiêu căng (pompous) và giả dối (fake), ngạo mạn (insolent), và tâm tán loạn (scattered): những Tỳ kheo đó không phải là đệ tử của Ta. Họ đã rời bỏ giáo pháp và giới luật này, và họ không đạt được sự tăng trưởng, tiến bộ, hay trưởng thành trong giáo pháp và giới luật này.

Nhưng những Tỳ kheo chân thật (genuine), không mơn trớn, chú tâm (attentive / cẩn trọng, chú ý), dễ bảo (amenable / dễ dạy, thuận theo), và tâm định tĩnh (serene / tâm thanh tịnh, yên lặng): những Tỳ kheo đó là đệ tử của Ta. Họ không rời bỏ giáo pháp và giới luật này, và họ đạt được sự tăng trưởng, tiến bộ, hay trưởng thành trong giáo pháp và giới luật này.

Những kẻ lừa đảo và mơn trớn,
>Kiêu căng và giả dối,
Ngạo mạn và tâm tán loạn:
Những kẻ này không tăng trưởng trong giáo pháp
Đã được Đức Phật toàn giác giảng dạy.

Nhưng những người chân thật, không mơn trớn, chú tâm,
Dễ bảo, và tâm định tĩnh:
Những người này tăng trưởng trong giáo pháp
Đã được Đức Phật toàn giác giảng dạy."

AN 4.27 Sự Tri Túc Santuṭṭhisutta

"Này các Tỳ kheo, bốn vật dụng tối thiểu (trifles / những thứ nhỏ nhặt, đơn giản) này dễ tìm và không đáng chê trách (blameless / không có lỗi). Bốn điều gì? Y phấn tảo (rag-robes / y may từ vải vụn nhặt nơi bỏ rác) ... Vật thực khất thực (lump of almsfood / thức ăn nhận được khi đi xin) ... Sàng tọa gốc cây (lodgings at the root of a tree / chỗ ở dưới gốc cây) ... Nước tiểu mục làm thuốc (rancid urine as medicine / nước tiểu bò lên men dùng làm thuốc) ...

Bốn vật dụng tối thiểu này dễ tìm và không đáng chê trách. Khi một Tỳ kheo bằng lòng với những vật dụng tối thiểu dễ tìm, vị ấy có một trong những yếu tố của đời sống Sa môn (factors of the ascetic life), Ta nói vậy.

Khi bạn bằng lòng với những gì không đáng chê trách,
Tối thiểu, và dễ tìm,
Bạn không buồn phiền
Về chỗ ở, y phục,
Thức ăn, và đồ uống,
Và bạn không bị ngăn ngại (obstructed) ở bất cứ đâu.

Những phẩm chất này được nói là
Thuộc về đời sống Sa môn (integral to the ascetic life).
Chúng được làm chủ bởi người tu tập,
Biết đủ và tinh cần (diligent / siêng năng)."

AN 4.28 Truyền Thống Cao Quý Ariyavaṁsasutta

"Này các Tỳ kheo, bốn thánh chủng (noble traditions / truyền thống bậc Thánh) này là nguyên thủy (primordial), lâu đời (long-standing), truyền thống (traditional), và cổ xưa (ancient). Chúng không tạp loạn (uncorrupted), như chúng đã có từ ban đầu. Chúng không bị tạp loạn bây giờ, và cũng sẽ không bị như vậy trong tương lai. Các Sa môn và Bà la môn có trí (sensible) không xem thường chúng. Bốn điều gì?

Thứ nhất, một Tỳ kheo bằng lòng với bất kỳ loại y phục nào, và tán thán sự tri túc (contentment / sự biết đủ) như vậy. Vị ấy không cố gắng kiếm y phục bằng cách không đúng đắn (improper way). Vị ấy không buồn phiền nếu không nhận được y phục. Và nếu nhận được y phục, vị ấy sử dụng nó mà không bị ràng buộc (untied), không say đắm (uninfatuated), không chấp thủ (unattached), thấy rõ sự nguy hại (seeing the drawback), và hiểu rõ lối thoát ly (understanding the escape). Nhưng vị ấy không khen mình chê người (glorify themselves or put others down) vì sự tri túc của mình. Một Tỳ kheo khéo léo (deft), không mệt mỏi (tireless), tỉnh giác (aware / biết rõ), và chánh niệm (mindful / nhớ nghĩ đúng đắn, tỉnh thức) trong việc này được gọi là người đứng vững trong thánh chủng cổ xưa, nguyên thủy.

Hơn nữa, một Tỳ kheo bằng lòng với bất kỳ loại vật thực khất thực nào ...

Hơn nữa, một Tỳ kheo bằng lòng với bất kỳ loại chỗ ở nào ...

Hơn nữa, một Tỳ kheo thích thú và ưa thích thiền định (enjoys meditation and loves to meditate). Vị ấy thích thú và ưa thích sự từ bỏ (enjoys giving up and loves to give up). Nhưng vị ấy không khen mình chê người vì lòng yêu thích thiền định và sự từ bỏ của mình. Một Tỳ kheo khéo léo, không mệt mỏi, tỉnh giác, và chánh niệm trong việc này được gọi là người đứng vững trong thánh chủng cổ xưa, nguyên thủy.

Bốn thánh chủng này là nguyên thủy, lâu đời, truyền thống, và cổ xưa. Chúng không tạp loạn, như chúng đã có từ ban đầu. Chúng không bị tạp loạn bây giờ cũng như sẽ không bị như vậy trong tương lai. Các Sa môn và Bà la môn có trí không xem thường chúng.

Khi một Tỳ kheo có bốn thánh chủng này, nếu vị ấy sống ở phương đông, vị ấy chế ngự được sự bất mãn (prevail over discontent), và sự bất mãn (discontent) không chế ngự được vị ấy. Nếu vị ấy sống ở phương tây ... phương bắc ... phương nam, vị ấy chế ngự được sự bất mãn, và sự bất mãn không chế ngự được vị ấy. Tại sao vậy? Bởi vì người tinh cần (attentive / người siêng năng, chú tâm) chế ngự được tham ái (desire) và sự bất mãn.

Sự bất mãn không thể chế ngự người tinh cần;
Người tinh cần không bị sự bất mãn chế ngự.
Người tinh cần có thể chế ngự sự bất mãn,
Vì người tinh cần là những người chế ngự sự bất mãn.

Ai có thể cản được người đoạn trừ (dispeller),
Người đã từ bỏ mọi nghiệp (who's thrown away all deeds)?
Như một khối vàng Diêm Phù Đàn (Pendant of Black Plum River gold / loại vàng ròng tốt nhất từ sông Jambu),
Ai xứng đáng chê trách (criticize) họ?
Ngay cả chư thiên cũng tán thán họ,
Và bởi Phạm thiên (Divinity), họ cũng được tán thán."

AN 4.29 Dấu Chân Pháp Dhammapadasutta

"Này các Tỳ kheo, bốn dấu chân Pháp (footprints of the Dhamma / những nền tảng của Giáo pháp) này là nguyên thủy, lâu đời, truyền thống, và cổ xưa. Chúng không tạp loạn, như chúng đã có từ ban đầu. Chúng không bị tạp loạn bây giờ cũng như sẽ không bị như vậy trong tương lai. Các Sa môn và Bà la môn có trí không xem thường chúng. Bốn điều gì? Sự tri túc, từ tâm (good will / lòng nhân ái, thiện ý), chánh niệm (right mindfulness / sự nhớ nghĩ đúng đắn, tỉnh thức), và chánh định (right immersion / sự tập trung đúng đắn, thiền định đúng đắn).

Bốn dấu chân Pháp này là nguyên thủy, lâu đời, truyền thống, và cổ xưa. Chúng không tạp loạn, như chúng đã có từ ban đầu. Chúng không bị tạp loạn bây giờ cũng như sẽ không bị như vậy trong tương lai. Các Sa môn và Bà la môn có trí không xem thường chúng.

Bạn nên sống với sự tri túc,
Và một trái tim từ ái,
Chánh niệm, với tâm thống nhất (unified mind),
Nội tâm tịch tĩnh (serene within)."

AN 4.30 Các Du Sĩ Ngoại Đạo Paribbājakasutta

Một thời Đức Phật trú gần Rājagaha (Vương Xá), trên núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu).

Lúc bấy giờ, có nhiều du sĩ ngoại đạo (wanderers / các nhà tu hành lang thang thuộc tôn giáo khác) rất nổi tiếng đang cư trú tại tu viện của các du sĩ ngoại đạo bên bờ sông Sappinī. Trong số đó có Annabhāra, Varadhara, Sakuludāyī, và các du sĩ ngoại đạo rất nổi tiếng khác. Vào buổi chiều muộn, Đức Phật rời khỏi nơi độc cư và đi đến tu viện của các du sĩ ngoại đạo bên bờ sông Sappinī. Ngài ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn và nói với các du sĩ ngoại đạo:

"Này các du sĩ ngoại đạo, bốn dấu chân Pháp này là nguyên thủy, lâu đời, truyền thống, và cổ xưa. Chúng không tạp loạn, như chúng đã có từ ban đầu. Chúng không bị tạp loạn bây giờ cũng như sẽ không bị như vậy trong tương lai. Các Sa môn và Bà la môn có trí không xem thường chúng. Bốn điều gì? Sự tri túc ... Từ tâm ... Chánh niệm ... Chánh định ... Bốn dấu chân Pháp này là nguyên thủy, lâu đời, truyền thống, và cổ xưa. Chúng không tạp loạn, như chúng đã có từ ban đầu. Chúng không bị tạp loạn bây giờ cũng như sẽ không bị như vậy trong tương lai. Các Sa môn và Bà la môn có trí không xem thường chúng.

Này các du sĩ ngoại đạo, nếu có ai nói rằng: 'Tôi sẽ bác bỏ dấu chân Pháp về sự tri túc này, và mô tả một Sa môn hay Bà la môn chân chính lại tham đắm các dục với lòng ham muốn mãnh liệt (covets sensual pleasures with acute lust).' Thì Ta sẽ nói với họ: 'Hãy để họ đến, nói, và thảo luận. Chúng ta sẽ xem họ mạnh mẽ đến đâu.' Hoàn toàn không thể bác bỏ dấu chân Pháp về sự tri túc này, và chỉ ra một Sa môn hay Bà la môn chân chính lại tham đắm các dục với lòng ham muốn mãnh liệt.

Nếu có ai nói rằng: 'Tôi sẽ bác bỏ dấu chân Pháp về từ tâm này, và mô tả một Sa môn hay Bà la môn chân chính lại có sân hận và ác ý (ill will and malicious intent).' Thì Ta sẽ nói với họ: 'Hãy để họ đến, nói, và thảo luận. Chúng ta sẽ xem họ mạnh mẽ đến đâu.' Hoàn toàn không thể bác bỏ dấu chân Pháp về từ tâm này, và chỉ ra một Sa môn hay Bà la môn chân chính lại có sân hận và ác ý.

Nếu có ai nói rằng: 'Tôi sẽ bác bỏ dấu chân Pháp về chánh niệm này, và mô tả một Sa môn hay Bà la môn chân chính lại thất niệm, bất tỉnh giác (unmindful, with no situational awareness / không có niệm, không biết rõ).' Thì Ta sẽ nói với họ: 'Hãy để họ đến, nói, và thảo luận. Chúng ta sẽ xem họ mạnh mẽ đến đâu.' Hoàn toàn không thể bác bỏ dấu chân Pháp về chánh niệm này, và chỉ ra một Sa môn hay Bà la môn chân chính lại thất niệm, không tỉnh giác.

Nếu có ai nói rằng: 'Tôi sẽ bác bỏ dấu chân Pháp về chánh định này, và mô tả một Sa môn hay Bà la môn chân chính lại có tâm tán loạn, phóng dật (scattered, with straying mind).' Thì Ta sẽ nói với họ: 'Hãy để họ đến, nói, và thảo luận. Chúng ta sẽ xem họ mạnh mẽ đến đâu.' Hoàn toàn không thể bác bỏ dấu chân Pháp về chánh định này, và chỉ ra một Sa môn hay Bà la môn chân chính lại có tâm tán loạn, phóng dật.

Nếu bất kỳ ai tưởng tượng rằng họ có thể chỉ trích và bác bỏ bốn dấu chân Pháp này, họ đáng bị sự phản bác và chỉ trích (rebuttal and criticism) trên bốn lý do chính đáng (legitimate grounds) ngay trong đời này. Bốn lý do nào?

Nếu bạn bác bỏ dấu chân Pháp về sự tri túc, thì bạn phải tôn vinh và ca ngợi những Sa môn và Bà la môn tham đắm các dục với lòng ham muốn mãnh liệt.

Nếu bạn bác bỏ dấu chân Pháp về từ tâm, bạn phải tôn vinh và ca ngợi những Sa môn và Bà la môn có sân hận và ác ý.

Nếu bạn bác bỏ dấu chân Pháp về chánh niệm, thì bạn phải tôn vinh và ca ngợi những Sa môn và Bà la môn thất niệm, không tỉnh giác.

Nếu bạn bác bỏ dấu chân Pháp về chánh định, bạn phải tôn vinh và ca ngợi những Sa môn và Bà la môn có tâm tán loạn, phóng dật.

Nếu bất kỳ ai tưởng tượng rằng họ có thể chỉ trích và bác bỏ bốn dấu chân Pháp này, họ đáng bị sự phản bác và chỉ trích trên bốn lý do chính đáng ngay trong đời này.

Ngay cả những du sĩ ngoại đạo thời quá khứ, Vassa và Bhañña ở Ukkalā, những người theo thuyết vô nhân, vô hành, vô hữu (doctrines of no-cause, inaction, and nihilism / các học thuyết cho rằng không có nguyên nhân, không có hành động tạo tác, không có gì tồn tại), cũng không tưởng tượng rằng bốn dấu chân Pháp này nên bị chỉ trích hay bác bỏ. Tại sao vậy? Vì sợ bị khiển trách, chỉ trích và bắt lỗi (blamed, criticized, and faulted).

Người có từ tâm, luôn chánh niệm,
Nội tâm tịch tĩnh,
Tu tập để đoạn trừ tham ái,
Được gọi là 'người tinh cần'."