Skip to content

Phẩm về Những Mối Nguy Hiểm

AN 4.121 Tự Trách Attānuvādasutta

"Này các Tỳ kheo, có bốn nỗi sợ hãi này. Bốn nỗi sợ hãi nào? Sợ bị tự trách, sợ bị người khác chê trách, sợ bị trừng phạt, và sợ bị tái sinh vào cõi dữ.

Và này các Tỳ kheo, thế nào là sợ bị tự trách? Đó là khi một người suy xét: 'Nếu ta làm những điều xấu ác qua thân, khẩu, ý, chẳng phải ta sẽ tự trách mình về hành vi của mình sao?' Vì sợ bị tự trách, người ấy từ bỏ hành vi xấu ác qua thân, khẩu, ý, và phát triển hành vi tốt đẹp qua thân, khẩu, ý, giữ cho mình trong sạch. Đây gọi là sợ bị tự trách.

Và này các Tỳ kheo, thế nào là sợ bị người khác chê trách? Đó là khi một người suy xét: 'Nếu ta làm những điều xấu ác qua thân, khẩu, ý, chẳng phải người khác sẽ chê trách ta về hành vi của mình sao?' Vì sợ bị người khác chê trách, người ấy từ bỏ hành vi xấu ác qua thân, khẩu, ý, và phát triển hành vi tốt đẹp qua thân, khẩu, ý, giữ cho mình trong sạch. Đây gọi là sợ bị người khác chê trách.

Và này các Tỳ kheo, thế nào là sợ bị trừng phạt? Đó là khi một người thấy vua chúa bắt giữ một tên cướp, một tội phạm, và áp dụng nhiều hình phạt khác nhau—đánh bằng roi, đánh bằng gậy, đánh bằng dùi cui; chặt tay hoặc chân, hoặc cả hai; cắt tai hoặc mũi, hoặc cả hai; hình phạt 'nồi cháo', 'cạo vỏ sò', 'miệng Rāhu', 'vòng hoa lửa', 'bàn tay cháy', 'xoắn cỏ bấc', 'áo vỏ cây', 'con linh dương', 'móc thịt', 'đồng xu', 'dưa muối ăn da', 'thanh xoắn', 'chiếu rơm'; bị dội dầu nóng, bị ném cho chó ăn, bị xiên cọc đến chết, và bị chặt đầu.

Người ấy nghĩ: 'Nếu ta cũng làm những việc xấu ác tương tự, vua chúa cũng sẽ trừng phạt ta như vậy.' ... Vì sợ bị trừng phạt, người ấy không trộm cắp tài sản của người khác. Người ấy từ bỏ hành vi xấu ác qua thân, khẩu, ý, và phát triển hành vi tốt đẹp qua thân, khẩu, ý, giữ cho mình trong sạch. Đây gọi là sợ bị trừng phạt.

Và này các Tỳ kheo, thế nào là sợ bị tái sinh vào cõi dữ? Đó là khi một người suy xét: 'Hành vi xấu ác của thân, khẩu, hay ý có kết quả xấu trong đời sau. Nếu ta làm những điều xấu ác như vậy, khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, ta sẽ tái sinh vào cõi khổ, cõi dữ, đọa xứ, địa ngục.' Vì sợ bị tái sinh vào cõi dữ, người ấy từ bỏ hành vi xấu ác qua thân, khẩu, ý, và phát triển hành vi tốt đẹp qua thân, khẩu, ý, giữ cho mình trong sạch. Đây gọi là sợ bị tái sinh vào cõi dữ.

Đó là bốn nỗi sợ hãi."

AN 4.122 Nguy Hiểm Từ Sóng Ūmibhayasutta

"Này các Tỳ kheo, bất cứ ai xuống nước nên lường trước bốn mối nguy hiểm. Bốn mối nguy hiểm nào? Nguy hiểm từ sóng, nguy hiểm từ cá sấu, nguy hiểm từ xoáy nước, và nguy hiểm từ cá mập.

Đó là bốn mối nguy hiểm mà bất cứ ai xuống nước nên lường trước. Cũng vậy, một người thiện gia nam tử xuất gia từ bỏ đời sống thế tục, sống đời không gia đình trong giáo pháp và giới luật này nên lường trước bốn mối nguy hiểm. Bốn mối nguy hiểm nào? Nguy hiểm từ sóng, nguy hiểm từ cá sấu, nguy hiểm từ xoáy nước, và nguy hiểm từ cá mập.

Và này các Tỳ kheo, thế nào là nguy hiểm từ sóng? Đó là khi một người thiện gia nam tử xuất gia vì lòng tin từ bỏ đời sống thế tục, sống đời không gia đình, nghĩ rằng: 'Ta bị nhấn chìm bởi sanh, già, chết; bởi sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta bị khổ nhấn chìm, bị khổ chi phối. Hy vọng ta có thể tìm thấy sự chấm dứt cho toàn bộ khổ uẩn này.' Khi đã xuất gia, các vị đồng phạm hạnh khuyên bảo và chỉ dạy họ: 'Thầy nên đi ra như thế này, và trở về như thế kia. Thầy nên nhìn về phía trước như thế này, và nhìn sang bên như thế kia. Thầy nên co tay chân lại như thế này, và duỗi ra như thế kia. Đây là cách thầy nên mang thượng y, bát, và các y khác.' Họ nghĩ: 'Trước đây, khi còn là cư sĩ, chúng ta đã khuyên bảo và chỉ dạy người khác. Còn bây giờ những vị Tỳ kheo này—mà mình nghĩ đáng tuổi con cháu mình—lại cho rằng họ có thể khuyên bảo và chỉ dạy chúng ta!' Tức giận và phiền muộn, họ từ bỏ việc tu học và hoàn tục. Đây được gọi là một Tỳ kheo từ bỏ việc tu học và hoàn tục vì sợ nguy hiểm từ sóng. 'Nguy hiểm từ sóng' là ẩn dụ cho sự tức giận và phiền muộn. Đây gọi là nguy hiểm từ sóng.

Và này các Tỳ kheo, thế nào là nguy hiểm từ cá sấu? Đó là khi một người thiện gia nam tử xuất gia vì lòng tin từ bỏ đời sống thế tục, sống đời không gia đình... Khi đã xuất gia, các vị đồng phạm hạnh khuyên bảo và chỉ dạy họ: 'Thầy có thể ăn, dùng, nếm, và uống những thứ này, nhưng không được dùng những thứ kia. Thầy có thể ăn những gì được phép, nhưng không được ăn những gì không được phép. Thầy có thể ăn đúng thời, nhưng không được ăn phi thời.' Họ nghĩ: 'Trước đây, khi còn là cư sĩ, chúng ta thường ăn, dùng, nếm, và uống những gì mình muốn, chứ không phải những gì mình không muốn. Chúng ta ăn và uống cả những thứ được phép và không được phép, cả đúng thời và phi thời. Và những tín chủ này cúng dường cho chúng ta những món ăn tươi ngon vào lúc phi thời. Nhưng những người này lại tưởng họ có thể bịt miệng chúng ta!' Tức giận và phiền muộn, họ từ bỏ việc tu học và hoàn tục. Đây được gọi là một Tỳ kheo từ bỏ việc tu học và hoàn tục vì sợ nguy hiểm từ cá sấu. 'Nguy hiểm từ cá sấu' là ẩn dụ cho sự tham ăn. Đây gọi là nguy hiểm từ cá sấu.

Và này các Tỳ kheo, thế nào là nguy hiểm từ xoáy nước? Đó là khi một người thiện gia nam tử xuất gia vì lòng tin từ bỏ đời sống thế tục, sống đời không gia đình... Khi đã xuất gia, vào buổi sáng, họ đắp y, mang bát, vào làng hoặc thị trấn để khất thực mà không phòng hộ thân, khẩu, ý, không an trú chánh niệm, và không thu thúc các căn (sense faculties / các giác quan). Ở đó, họ thấy một người gia chủ hoặc con cái của họ đang vui chơi, được cung phụng đầy đủ năm loại dục lạc. Họ nghĩ: 'Trước đây, khi còn là cư sĩ, chúng ta cũng vui chơi, được cung phụng đầy đủ năm loại dục lạc. Và quả thật gia đình ta giàu có. Ta vừa có thể hưởng thụ tài sản vừa có thể làm phước. Tại sao ta không từ bỏ việc tu học và hoàn tục, để có thể hưởng thụ tài sản và làm phước?' Họ từ bỏ việc tu học và hoàn tục. Đây được gọi là một Tỳ kheo từ bỏ việc tu học và hoàn tục vì sợ nguy hiểm từ xoáy nước. 'Nguy hiểm từ xoáy nước' là ẩn dụ cho năm loại dục lạc. Đây gọi là nguy hiểm từ xoáy nước.

Và này các Tỳ kheo, thế nào là nguy hiểm từ cá mập? Đó là khi một người thiện gia nam tử xuất gia vì lòng tin từ bỏ đời sống thế tục, sống đời không gia đình... Khi đã xuất gia, vào buổi sáng, họ đắp y, mang bát, vào làng hoặc thị trấn để khất thực mà không phòng hộ thân, khẩu, ý, không an trú chánh niệm, và không thu thúc các căn. Ở đó, họ thấy một người nữ mặc y phục hở hang, khêu gợi. Dục vọng xâm chiếm tâm trí họ, nên họ từ bỏ việc tu học và hoàn tục. Đây được gọi là một Tỳ kheo từ bỏ việc tu học và hoàn tục vì sợ nguy hiểm từ cá mập. 'Nguy hiểm từ cá mập' là ẩn dụ cho người nữ. Đây gọi là nguy hiểm từ cá mập.

Đó là bốn mối nguy hiểm mà một người thiện gia nam tử xuất gia từ bỏ đời sống thế tục, sống đời không gia đình trong giáo pháp và giới luật này nên lường trước."

AN 4.123 Khác Biệt (1) Paṭhamamānākaraṇasutta

"Này các Tỳ kheo, bốn hạng người này có mặt ở trên đời. Bốn hạng người nào?

Có người, ly dục, ly bất thiện pháp (unskillful qualities / những trạng thái tâm tiêu cực, có hại), chứng và trú thiền (absorption / trạng thái nhập định) thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm và tứ (placing the mind and keeping it connected / sự hướng tâm đến đối tượng và sự duy trì tâm trên đối tượng). Người ấy thích thú, ưa thích và cảm thấy thỏa mãn với trạng thái đó. Nếu người ấy an trú trong đó, chuyên tâm vào đó, thường xuyên hành thiền về nó mà không để mất đi, khi mệnh chung, người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Phạm Chúng Thiên. Tuổi thọ của chư Thiên cõi Phạm Chúng Thiên là một kiếp. Một phàm phu (ordinary person / người chưa giác ngộ) ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi họ đi vào địa ngục, súc sinh hay ngạ quỷ. Nhưng một đệ tử của Đức Phật ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi vị ấy nhập Niết Bàn ngay trong đời sống ấy. Đây là sự khác biệt giữa một vị Thánh đệ tử đa văn và một kẻ phàm phu ít nghe, nghĩa là, khi có một cảnh giới tái sinh.

Lại nữa, có người, sau khi làm lắng dịu tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, nội tĩnh nhất tâm, không tầm không tứ. Người ấy thích thú, ưa thích và cảm thấy thỏa mãn với trạng thái đó. Nếu người ấy an trú trong đó, chuyên tâm vào đó, thường xuyên hành thiền về nó mà không để mất đi, khi mệnh chung, người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Quang Âm Thiên. Tuổi thọ của chư Thiên cõi Quang Âm Thiên là hai kiếp. Một phàm phu ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi họ đi vào địa ngục, súc sinh hay ngạ quỷ. Nhưng một đệ tử của Đức Phật ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi vị ấy nhập Niết Bàn ngay trong đời sống ấy. Đây là sự khác biệt giữa một vị Thánh đệ tử đa văn và một kẻ phàm phu ít nghe, nghĩa là, khi có một cảnh giới tái sinh.

Lại nữa, có người, do ly hỷ, chứng và trú thiền thứ ba, nơi vị ấy trú xả (equanimity / trạng thái tâm quân bình, không dao động), chánh niệm, tỉnh giác (mindful and aware / sự ghi nhớ và nhận biết rõ ràng), thân cảm lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là 'xả niệm lạc trú'. Người ấy thích thú, ưa thích và cảm thấy thỏa mãn với trạng thái đó. Nếu người ấy an trú trong đó, chuyên tâm vào đó, thường xuyên hành thiền về nó mà không để mất đi, khi mệnh chung, người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Biến Tịnh Thiên. Tuổi thọ của chư Thiên cõi Biến Tịnh Thiên là bốn kiếp. Một phàm phu ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi họ đi vào địa ngục, súc sinh hay ngạ quỷ. Nhưng một đệ tử của Đức Phật ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi vị ấy nhập Niết Bàn ngay trong đời sống ấy. Đây là sự khác biệt giữa một vị Thánh đệ tử đa văn và một kẻ phàm phu ít nghe, nghĩa là, khi có một cảnh giới tái sinh.

Lại nữa, có người, do xả lạc, xả khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước đó, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Người ấy thích thú, ưa thích và cảm thấy thỏa mãn với trạng thái đó. Nếu người ấy an trú trong đó, chuyên tâm vào đó, thường xuyên hành thiền về nó mà không để mất đi, khi mệnh chung, người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Quảng Quả Thiên. Tuổi thọ của chư Thiên cõi Quảng Quả Thiên là năm trăm kiếp. Một phàm phu ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi họ đi vào địa ngục, súc sinh hay ngạ quỷ. Nhưng một đệ tử của Đức Phật ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi vị ấy nhập Niết Bàn ngay trong đời sống ấy. Đây là sự khác biệt giữa một vị Thánh đệ tử đa văn và một kẻ phàm phu ít nghe, nghĩa là, khi có một cảnh giới tái sinh.

Đó là bốn hạng người có mặt ở trên đời."

AN 4.124 Khác Biệt (2) Dutiyanānākaraṇasutta

"Này các Tỳ kheo, bốn hạng người này có mặt ở trên đời. Bốn hạng người nào?

Có người, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất... Người ấy quán các pháp ở đó—thuộc sắc, thọ, tưởng, hành, thức (form, feeling, perception, choices, and consciousness / năm nhóm yếu tố cấu thành con người: vật chất, cảm giác, tri giác, tâm hành, nhận thức)—là vô thường, khổ, vô ngã (impermanent, suffering, not-self / ba đặc tính chung của mọi hiện hữu: không thường còn, khổ đau, không có tự ngã), là bệnh, là ung nhọt, là mũi tên, là bất hạnh, là phiền não, là ngoại vật, là hoại diệt, là trống không, là vô ngã. Khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Tịnh Cư. Sự tái sinh này không chung với hàng phàm phu.

Lại nữa, có người, sau khi làm lắng dịu tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai... thiền thứ ba... thiền thứ tư... Người ấy quán các pháp ở đó—thuộc sắc, thọ, tưởng, hành, thức—là vô thường, là khổ, là bệnh, là ung nhọt, là mũi tên, là bất hạnh, là phiền não, là ngoại vật, là hoại diệt, là trống không, là vô ngã. Khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Tịnh Cư. Sự tái sinh này không chung với hàng phàm phu.

Đó là bốn hạng người có mặt ở trên đời."

AN 4.125 Từ Tâm (1) Paṭhamamettāsutta

"Này các Tỳ kheo, bốn hạng người này có mặt ở trên đời. Bốn hạng người nào?

Thứ nhất, một người hành thiền biến mãn tâm từ (love / lòng yêu thương, mong muốn chúng sinh được an lạc) đến một phương, rồi phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Cũng vậy, hướng lên trên, xuống dưới, bề ngang, khắp nơi, cùng khắp, người ấy biến mãn cả thế giới với tâm từ—dồi dào, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Người ấy thích thú, ưa thích và cảm thấy thỏa mãn với trạng thái đó. Nếu người ấy an trú trong đó, chuyên tâm vào đó, thường xuyên hành thiền về nó mà không để mất đi, khi mệnh chung, người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Phạm Chúng Thiên. Tuổi thọ của chư Thiên cõi Phạm Chúng Thiên là một kiếp. Một phàm phu ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi họ đi vào địa ngục, súc sinh hay ngạ quỷ. Nhưng một đệ tử của Đức Phật ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi vị ấy nhập Niết Bàn ngay trong đời sống ấy. Đây là sự khác biệt giữa một vị Thánh đệ tử đa văn và một kẻ phàm phu ít nghe, nghĩa là, khi có một cảnh giới tái sinh.

Lại nữa, một người hành thiền biến mãn tâm bi (compassion / lòng thương xót, mong muốn chúng sinh thoát khổ)... hỷ (rejoicing / niềm vui khi thấy chúng sinh được an lạc)... xả đến một phương, rồi phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Cũng vậy, hướng lên trên, xuống dưới, bề ngang, khắp nơi, cùng khắp, người ấy biến mãn cả thế giới với tâm xả—dồi dào, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Người ấy thích thú, ưa thích và cảm thấy thỏa mãn với trạng thái đó. Nếu người ấy an trú trong đó, chuyên tâm vào đó, thường xuyên hành thiền về nó mà không để mất đi, khi mệnh chung, người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Quang Âm Thiên. Tuổi thọ của chư Thiên cõi Quang Âm Thiên là hai kiếp. ... người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Biến Tịnh Thiên. Tuổi thọ của chư Thiên cõi Biến Tịnh Thiên là bốn kiếp. ... người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Quảng Quả Thiên. Tuổi thọ của chư Thiên cõi Quảng Quả Thiên là năm trăm kiếp. Một phàm phu ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi họ đi vào địa ngục, súc sinh hay ngạ quỷ. Nhưng một đệ tử của Đức Phật ở lại đó cho đến khi hết tuổi thọ của chư Thiên ấy, rồi vị ấy nhập Niết Bàn ngay trong đời sống ấy. Đây là sự khác biệt giữa một vị Thánh đệ tử đa văn và một kẻ phàm phu ít nghe, nghĩa là, khi có một cảnh giới tái sinh.

Đó là bốn hạng người có mặt ở trên đời."

AN 4.126 Từ Tâm (2) Dutiyamettāsutta

"Này các Tỳ kheo, bốn hạng người này có mặt ở trên đời. Bốn hạng người nào?

Thứ nhất, một người hành thiền biến mãn tâm từ đến một phương, rồi phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Cũng vậy, hướng lên trên, xuống dưới, bề ngang, khắp nơi, cùng khắp, người ấy biến mãn cả thế giới với tâm từ—dồi dào, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Người ấy quán các pháp ở đó—thuộc sắc, thọ, tưởng, hành, thức—là vô thường, là khổ, là bệnh, là ung nhọt, là mũi tên, là bất hạnh, là phiền não, là ngoại vật, là hoại diệt, là trống không, là vô ngã. Khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Tịnh Cư. Sự tái sinh này không chung với hàng phàm phu.

Lại nữa, một người hành thiền biến mãn tâm bi... hỷ... xả (tứ vô lượng tâm (four immeasurables / bốn trạng thái tâm cao thượng: từ, bi, hỷ, xả)) đến một phương, rồi phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Cũng vậy, hướng lên trên, xuống dưới, bề ngang, khắp nơi, cùng khắp, người ấy biến mãn cả thế giới với tâm xả—dồi dào, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Người ấy quán các pháp ở đó—thuộc sắc, thọ, tưởng, hành, thức—là vô thường, là khổ, là bệnh, là ung nhọt, là mũi tên, là bất hạnh, là phiền não, là ngoại vật, là hoại diệt, là trống không, là vô ngã. Khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, người ấy được tái sinh làm bạn đồng hành với chư Thiên cõi Tịnh Cư. Sự tái sinh này không chung với hàng phàm phu.

Đó là bốn hạng người có mặt ở trên đời."

AN 4.127 Điều Phi Thường về Như Lai (1) Paṭhamatathāgataacchariyasutta

"Này các Tỳ kheo, với sự xuất hiện của một vị Như Lai, bậc A-la-hán (perfected one / bậc đã giác ngộ hoàn toàn, thoát khỏi sinh tử luân hồi), bậc Chánh Đẳng Giác (fully awakened Buddha / bậc tự mình giác ngộ hoàn toàn và chỉ dạy cho chúng sinh), bốn điều phi thường và kỳ diệu xuất hiện. Bốn điều nào?

Khi vị Bồ-tát (being intent on awakening / chúng sinh đang trên đường tu tập để thành Phật) từ cõi trời Đâu Suất mệnh chung, ngài nhập vào bụng mẹ, chánh niệm và tỉnh giác. Và khi ấy—trong thế giới này cùng với chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, cùng quần chúng Sa-môn (ascetics / những người tu hành, khất sĩ), Bà-la-môn (brahmins / giai cấp tu sĩ, trí thức trong xã hội Ấn Độ cổ), chư Thiên và loài người—một ánh sáng vô lượng, huy hoàng xuất hiện, vượt xa uy quang của chư Thiên. Ngay cả trong khoảng không gian giữa các thế giới, trống rỗng, tăm tối—nơi mà ánh sáng của mặt trăng và mặt trời, dù mãnh liệt và quyền năng đến đâu, cũng không thể chiếu tới—một ánh sáng vô lượng, huy hoàng xuất hiện, vượt xa uy quang của chư Thiên. Và các chúng sinh tái sinh ở đó nhận ra nhau nhờ ánh sáng ấy: 'Ồ, hóa ra có những chúng sinh khác đã tái sinh ở đây!' Đây là điều phi thường và kỳ diệu thứ nhất xuất hiện với sự xuất hiện của một vị Như Lai.

Lại nữa, vị Bồ-tát đản sinh từ bụng mẹ, chánh niệm và tỉnh giác. Và khi ấy... một ánh sáng vô lượng, huy hoàng xuất hiện... ngay cả trong khoảng không gian giữa các thế giới... Đây là điều phi thường và kỳ diệu thứ hai xuất hiện với sự xuất hiện của một vị Như Lai.

Lại nữa, Như Lai chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và khi ấy... một ánh sáng vô lượng, huy hoàng xuất hiện... ngay cả trong khoảng không gian giữa các thế giới... Đây là điều phi thường và kỳ diệu thứ ba xuất hiện với sự xuất hiện của một vị Như Lai.

Lại nữa, Như Lai chuyển Bánh xe Pháp (Wheel of Dhamma / sự giảng dạy và truyền bá giáo pháp của Đức Phật) vô thượng. Và khi ấy... một ánh sáng vô lượng, huy hoàng xuất hiện... ngay cả trong khoảng không gian giữa các thế giới... Đây là điều phi thường và kỳ diệu thứ tư xuất hiện với sự xuất hiện của một vị Như Lai.

Với sự xuất hiện của một vị Như Lai, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác, bốn điều phi thường và kỳ diệu này xuất hiện."

AN 4.128 Điều Phi Thường về Như Lai (2) Dutiyatathāgataacchariyasutta

"Này các Tỳ kheo, với sự xuất hiện của một vị Như Lai, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác, bốn điều phi thường và kỳ diệu xuất hiện. Bốn điều nào?

Chúng sinh ưa thích chấp thủ (clinging / sự bám víu, dính mắc vào các đối tượng), yêu thích và vui hưởng sự chấp thủ. Tuy nhiên, khi Như Lai giảng Pháp về sự không chấp thủ, họ muốn lắng nghe, chú tâm lắng nghe, và nỗ lực để hiểu. Đây là điều phi thường và kỳ diệu thứ nhất xuất hiện với sự xuất hiện của một vị Như Lai.

Chúng sinh ưa thích ngã mạn (conceit / sự kiêu ngạo, tự cao tự đại), yêu thích và vui hưởng sự ngã mạn. Tuy nhiên, khi Như Lai giảng Pháp về sự đoạn trừ ngã mạn, họ muốn lắng nghe, chú tâm lắng nghe, và nỗ lực để hiểu. Đây là điều phi thường và kỳ diệu thứ hai xuất hiện với sự xuất hiện của một vị Như Lai.

Chúng sinh ưa thích sự dao động, yêu thích và vui hưởng sự dao động. Tuy nhiên, khi Như Lai giảng Pháp về sự tịch tịnh, họ muốn lắng nghe, chú tâm lắng nghe, và nỗ lực để hiểu. Đây là điều phi thường và kỳ diệu thứ ba xuất hiện với sự xuất hiện của một vị Như Lai.

Quần chúng này bị vô minh (ignorance / sự không hiểu biết về Tứ Diệu Đế, về bản chất thực của các pháp) bao phủ, như nằm trong vỏ trứng. Tuy nhiên, khi Như Lai giảng Pháp về sự đoạn trừ vô minh, họ muốn lắng nghe, chú tâm lắng nghe, và nỗ lực để hiểu. Đây là điều phi thường và kỳ diệu thứ tư xuất hiện với sự xuất hiện của một vị Như Lai.

Với sự xuất hiện của một vị Như Lai, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác, bốn điều phi thường và kỳ diệu này xuất hiện."

AN 4.129 Điều Phi Thường về Ngài Ānanda Ānandaacchariyasutta

"Này các Tỳ kheo, có bốn điều phi thường và kỳ diệu này về Ngài Ānanda. Bốn điều nào?

Nếu chúng Tỳ kheo đến gặp Ngài Ānanda, họ hoan hỷ khi được thấy ngài và hoan hỷ khi nghe ngài nói pháp. Và khi ngài im lặng, họ vẫn chưa thấy đủ.

Nếu chúng Tỳ kheo ni... nam cư sĩ... hay nữ cư sĩ đến gặp Ngài Ānanda, họ hoan hỷ khi được thấy ngài và hoan hỷ khi nghe ngài nói pháp. Và khi ngài im lặng, họ vẫn chưa thấy đủ.

Đó là bốn điều phi thường và kỳ diệu về Ngài Ānanda."

AN 4.130 Điều Phi Thường về Vua Chuyển Luân Cakkavattiacchariyasutta

"Này các Tỳ kheo, có bốn điều phi thường và kỳ diệu này về một vị vua Chuyển Luân. Bốn điều nào?

Nếu chúng Sát-đế-lỵ (aristocrats / giai cấp vua chúa, quý tộc chiến binh trong xã hội Ấn Độ cổ) đến gặp một vị vua Chuyển Luân, họ hoan hỷ khi được thấy vua và hoan hỷ khi nghe vua nói. Và khi vua im lặng, họ vẫn chưa thấy đủ.

Nếu chúng Bà-la-môn... gia chủ... hay Sa-môn đến gặp một vị vua Chuyển Luân, họ hoan hỷ khi được thấy vua và hoan hỷ khi nghe vua nói. Và khi vua im lặng, họ vẫn chưa thấy đủ.

Đó là bốn điều phi thường và kỳ diệu về một vị vua Chuyển Luân.

Cũng vậy, có bốn điều phi thường và kỳ diệu này về Ngài Ānanda. Bốn điều nào?

Nếu chúng Tỳ kheo đến gặp Ngài Ānanda, họ hoan hỷ khi được thấy ngài và hoan hỷ khi nghe ngài nói pháp. Và khi ngài im lặng, họ vẫn chưa thấy đủ.

Nếu chúng Tỳ kheo ni... nam cư sĩ... hay nữ cư sĩ đến gặp Ngài Ānanda, họ hoan hỷ khi được thấy ngài và hoan hỷ khi nghe ngài nói pháp. Và khi ngài im lặng, họ vẫn chưa thấy đủ.

Đó là bốn điều phi thường và kỳ diệu về Ngài Ānanda."