Skip to content

Phẩm về Hạng Người

AN 4.131 Kiết Sử (Kinh Saṁyojana)

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người này được tìm thấy ở trên đời. Thế nào là bốn?

1. Có hạng người chưa đoạn trừ hạ phần kiết sử (lower fetters / 5 ràng buộc thấp hơn: thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân hận), sanh y kiết sử (fetters for getting reborn / ràng buộc dẫn đến tái sanh), hay hữu y kiết sử (fetters for getting a continued existence / ràng buộc dẫn đến sự tiếp tục tồn tại).
2. Có hạng người đã đoạn trừ hạ phần kiết sử, nhưng chưa đoạn trừ sanh y kiết sử, hay hữu y kiết sử.
3. Có hạng người đã đoạn trừ hạ phần kiết sử và sanh y kiết sử, nhưng chưa đoạn trừ hữu y kiết sử.
4. Có hạng người đã đoạn trừ hạ phần kiết sử, sanh y kiết sử, và hữu y kiết sử.

Hạng người nào chưa đoạn trừ hạ phần kiết sử, sanh y kiết sử, hay hữu y kiết sử? Đó là bậc Nhất lai (once-returner / người chỉ còn trở lại cõi dục một lần nữa). Đây là hạng người chưa đoạn trừ hạ phần kiết sử, sanh y kiết sử, hay hữu y kiết sử.

Hạng người nào đã đoạn trừ hạ phần kiết sử, nhưng chưa đoạn trừ sanh y kiết sử, hay hữu y kiết sử? Đó là bậc Thượng lưu sắc cứu cánh thiên (heading upstream, going to the Akaniṭṭha realm / người đi ngược dòng, sanh về cõi trời Sắc Cứu Cánh).

Hạng người nào đã đoạn trừ hạ phần kiết sử và sanh y kiết sử, nhưng chưa đoạn trừ hữu y kiết sử? Đó là bậc Trung gian Bát-niết-bàn (extinguished between one life and the next / người nhập Niết-bàn giữa hai kiếp sống).

Hạng người nào đã đoạn trừ hạ phần kiết sử, sanh y kiết sử, và hữu y kiết sử? Đó là bậc A-la-hán (perfected one / bậc đã hoàn thiện, chấm dứt khổ đau).

Này các Tỳ kheo, đó là bốn hạng người được tìm thấy ở trên đời."

AN 4.132 Biện Tài (Kinh Paṭibhāna)

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người này được tìm thấy ở trên đời. Thế nào là bốn?

1. Có người nói đúng chủ đề, nhưng không lưu loát.
2. Có người nói lưu loát, nhưng không đúng chủ đề.
3. Có người nói đúng chủ đề và lưu loát.
4. Có người nói không đúng chủ đề cũng không lưu loát.

Này các Tỳ kheo, đó là bốn hạng người được tìm thấy ở trên đời."

AN 4.133 Người Hiểu Ngay (Kinh Ugghaṭitaññū)

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người này được tìm thấy ở trên đời. Thế nào là bốn? Người có trí tuệ quảng bác (understands immediately / người hiểu ngay khi nghe), người có trí tuệ khai triển (understands after detailed explanation / người hiểu sau khi được giải thích chi tiết), người cần được dẫn dắt (needs education / người cần được hướng dẫn, chỉ dạy), và người chỉ thuộc lòng văn cú (merely learns by rote / người chỉ học thuộc lòng mà không hiểu nghĩa). Này các Tỳ kheo, đó là bốn hạng người được tìm thấy ở trên đời."

AN 4.134 Quả Của Nỗ Lực (Kinh Uṭṭhānaphala)

"Có bốn hạng người này được tìm thấy ở trên đời. Thế nào là bốn?

1. Có người sống nhờ quả của sự nỗ lực, nhưng không phải quả của nghiệp (deeds / hành động, việc làm);
2. có người sống nhờ quả của nghiệp, nhưng không phải quả của sự nỗ lực;
3. có người sống nhờ quả của cả nghiệp và sự nỗ lực;
4. có người sống không nhờ quả của sự nỗ lực cũng không nhờ quả của nghiệp.\

Này các Tỳ kheo, đó là bốn hạng người được tìm thấy ở trên đời."

AN 4.135 Đáng Chê Trách (Kinh Sāvajja)

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người này được tìm thấy ở trên đời. Thế nào là bốn? Hạng người đáng chê trách, hạng người phần lớn đáng chê trách, hạng người ít đáng chê trách, và hạng người không đáng chê trách.

Và thế nào là hạng người đáng chê trách? Đó là khi một người làm những việc qua thân, khẩu, ý (body, speech, and mind / hành động, lời nói và suy nghĩ) đáng bị chê trách. Như vậy là hạng người đáng chê trách.

Và thế nào là hạng người phần lớn đáng chê trách? Đó là khi một người làm những việc qua thân, khẩu, ý phần lớn đáng bị chê trách, nhưng thỉnh thoảng cũng có việc không đáng chê trách. Như vậy là hạng người phần lớn đáng chê trách.

Và thế nào là hạng người ít đáng chê trách? Đó là khi một người làm những việc qua thân, khẩu, ý phần lớn không đáng bị chê trách, nhưng thỉnh thoảng cũng có việc đáng chê trách. Như vậy là hạng người ít đáng chê trách.

Và thế nào là hạng người không đáng chê trách? Đó là khi một người làm những việc qua thân, khẩu, ý không đáng bị chê trách. Như vậy là hạng người không đáng chê trách.

Này các Tỳ kheo, đó là bốn hạng người được tìm thấy ở trên đời."

AN 4.136 Giới (Thứ Nhất) (Kinh Paṭhamasīla)

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người này được tìm thấy ở trên đời. Thế nào là bốn? Có người chưa viên mãn giới (ethics / các quy tắc đạo đức), định (immersion / sự tập trung tâm ý, thiền định), hay tuệ (wisdom / sự hiểu biết đúng đắn, trí tuệ).

Có người đã viên mãn giới, nhưng chưa viên mãn định hay tuệ.

Có người đã viên mãn giới và định, nhưng chưa viên mãn tuệ.

Có người đã viên mãn giới, định, và tuệ.

Này các Tỳ kheo, đó là bốn hạng người được tìm thấy ở trên đời."

AN 4.137 Giới (Thứ Hai) (Kinh Dutiyasīla)

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người này được tìm thấy ở trên đời. Thế nào là bốn?

1. Có người không coi trọng hay tuân thủ giới, định, hay tuệ.
2. Có người coi trọng và tuân thủ giới, nhưng không coi trọng hay tuân thủ định hay tuệ.
3. Có người coi trọng và tuân thủ giới và định, nhưng không coi trọng hay tuân thủ tuệ.
4. Có người coi trọng và tuân thủ giới, định, và tuệ.\

Này các Tỳ kheo, đó là bốn hạng người được tìm thấy ở trên đời."

AN 4.138 Viễn Ly (Kinh Nikaṭṭha)

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người này được tìm thấy ở trên đời. Thế nào là bốn?

1. Có người viễn ly (retreat / sự xa lánh, sống ẩn dật) về thân, nhưng không viễn ly về tâm;
2. có người viễn ly về tâm, nhưng không viễn ly về thân;
3. có người không viễn ly về thân cũng không viễn ly về tâm; và
4. có người viễn ly cả về thân lẫn tâm.

Và thế nào là người viễn ly về thân, nhưng không viễn ly về tâm? Đó là khi một người thường lui tới những chỗ ở xa vắng trong rừng núi hoang vu. Nhưng họ lại suy nghĩ những tư duy về dục vọng, sân hận và hãm hại. Như vậy là người viễn ly về thân, nhưng không viễn ly về tâm.

Và thế nào là người viễn ly về tâm, nhưng không viễn ly về thân? Đó là khi một người không thường lui tới những chỗ ở xa vắng trong rừng núi hoang vu. Nhưng họ lại suy nghĩ những tư duy về xuất ly, vô sân và bất hại. Như vậy là người viễn ly về tâm, nhưng không viễn ly về thân.

Và thế nào là người không viễn ly về thân cũng không viễn ly về tâm? Đó là khi một người không thường lui tới những chỗ ở xa vắng trong rừng núi hoang vu. Và họ lại suy nghĩ những tư duy về dục vọng, sân hận và hãm hại. Như vậy là người không viễn ly về thân cũng không viễn ly về tâm.

Và thế nào là người viễn ly cả về thân lẫn tâm? Đó là khi một người thường lui tới những chỗ ở xa vắng trong rừng núi hoang vu. Và họ lại suy nghĩ những tư duy về xuất ly, vô sân và bất hại. Như vậy là người viễn ly cả về thân lẫn tâm.

Này các Tỳ kheo, đó là bốn hạng người được tìm thấy ở trên đời."

AN 4.139 Người Thuyết Pháp (Kinh Dhammakathika)

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người thuyết pháp này. Thế nào là bốn?

Có người thuyết pháp nói ít và không liên hệ đến pháp. Và hội chúng (assembly / những người nghe pháp) của họ không thể phân biệt được điều gì liên hệ đến pháp và điều gì không liên hệ đến pháp. Hội chúng như vậy xem người thuyết pháp như vậy đơn thuần là một người thuyết pháp.

Có người thuyết pháp nói ít nhưng liên hệ đến pháp. Và hội chúng của họ có thể phân biệt được điều gì liên hệ đến pháp và điều gì không liên hệ đến pháp. Hội chúng như vậy xem người thuyết pháp như vậy đơn thuần là một người thuyết pháp.

Có người thuyết pháp nói nhiều nhưng không liên hệ đến pháp. Và hội chúng của họ không thể phân biệt được điều gì liên hệ đến pháp và điều gì không liên hệ đến pháp. Hội chúng như vậy xem người thuyết pháp như vậy đơn thuần là một người thuyết pháp.

Có người thuyết pháp nói nhiều và liên hệ đến pháp. Và hội chúng của họ có thể phân biệt được điều gì liên hệ đến pháp và điều gì không liên hệ đến pháp. Hội chúng như vậy xem người thuyết pháp như vậy đơn thuần là một người thuyết pháp.

Này các Tỳ kheo, đó là bốn hạng người thuyết pháp."

AN 4.140 Người Diễn Thuyết (Kinh Vādī)

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người diễn thuyết này. Thế nào là bốn?

1. Có người diễn thuyết hết nghĩa (meaningful things to say / nội dung ý nghĩa) để nói, nhưng không hết văn (ways of phrasing things / cách diễn đạt, lời lẽ).
2. Có người diễn thuyết hết văn để nói, nhưng không hết nghĩa.
3. Có người diễn thuyết hết cả nghĩa lẫn văn.
4. Có người diễn thuyết không bao giờ hết nghĩa hay văn.

Này các Tỳ kheo, đó là bốn hạng người diễn thuyết. Điều này không thể xảy ra, không thể có được rằng một người đã thành tựu Tứ vô ngại giải (four kinds of textual analysis / bốn loại phân tích không trở ngại: nghĩa, pháp, từ ngữ, biện tài) lại có thể hết nghĩa hay văn để nói."