Phẩm về các Căn
AN 4.151 Kinh Căn (Indriyasutta)
"Này các Tỳ kheo, có bốn căn (faculties / khả năng, quyền năng của tâm) này. Bốn là gì? Tín (faith / niềm tin) căn, tấn (energy / sự tinh tấn, nỗ lực) căn, niệm (mindfulness / sự chú tâm, ghi nhớ) căn, và định (immersion / sự tập trung tâm) căn. Đó là bốn căn."
AN 4.152 Kinh Tín Lực (Saddhābalasutta)
"Này các Tỳ kheo, có bốn lực (powers / sức mạnh) này. Bốn là gì? Tín lực, tấn lực, niệm lực, và định lực. Đó là bốn lực."
AN 4.153 Kinh Tuệ Lực (Paññābalasutta)
"Này các Tỳ kheo, có bốn lực này. Bốn là gì? Tuệ (wisdom / trí tuệ) lực, tấn lực, vô tội (blamelessness / không có lỗi lầm, không đáng trách) lực, và nhiếp trì (inclusiveness / sự thu phục, bao gồm) lực. Đó là bốn lực."
AN 4.154 Kinh Niệm Lực (Satibalasutta)
"Này các Tỳ kheo, có bốn lực này. Bốn là gì? Niệm lực, định lực, vô tội lực, và nhiếp trì lực. Đó là bốn lực."
AN 4.155 Kinh Thẩm Sát Lực (Paṭisaṅkhānabalasutta)
"Này các Tỳ kheo, có bốn lực này. Bốn là gì? Thẩm sát (reflection / sự quán xét, suy xét kỹ lưỡng) lực, tu tập (development / sự rèn luyện, phát triển tâm) lực, vô tội lực, và nhiếp trì lực. Đó là bốn lực."
AN 4.156 Kinh Kiếp (Kappasutta)
"Này các Tỳ kheo, một kiếp (eon / một khoảng thời gian rất dài, một chu kỳ thế giới) có bốn a-tăng-kỳ (uncountable periods / khoảng thời gian không thể đếm được). Bốn là gì?
Khi một kiếp đang hoại (contracts / giai đoạn thế giới tan rã), không dễ để tính toán mất bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm hay ngàn hay trăm ngàn năm.
Khi một kiếp đang trong giai đoạn không (remains fully contracted / giai đoạn thế giới trống không sau khi hoại), không dễ để tính toán mất bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm hay ngàn hay trăm ngàn năm.
Khi một kiếp đang thành (expands / giai đoạn thế giới hình thành), không dễ để tính toán mất bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm hay ngàn hay trăm ngàn năm.
Khi một kiếp đang trong giai đoạn trụ (remains fully expanded / giai đoạn thế giới tồn tại ổn định), không dễ để tính toán mất bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm hay ngàn hay trăm ngàn năm.
Đó là bốn a-tăng-kỳ của một kiếp."
AN 4.157 Kinh Bệnh (Rogasutta)
"Này các Tỳ kheo, có hai loại bệnh. Hai là gì? Thân bệnh và tâm bệnh (Mental and physical / bệnh về thể xác và bệnh về tinh thần). Có thể thấy những chúng sanh (sentient beings / các loài hữu tình) có thể tuyên bố mình không bị thân bệnh trong một năm, hoặc hai, hoặc ba năm... thậm chí đến một trăm năm hoặc hơn. Nhưng rất khó tìm thấy bất kỳ chúng sanh nào trên thế gian có thể tuyên bố mình không bị tâm bệnh dù chỉ trong một giờ, ngoại trừ những vị đã đoạn tận các lậu hoặc (defilements / những ô nhiễm, phiền não làm tâm ô uế).
Có bốn loại bệnh đối với những người xuất gia (gone forth / người rời bỏ đời sống gia đình để tu hành). Bốn là gì?
Trước hết, một Tỳ kheo có nhiều mong muốn, bị thất vọng, và không hài lòng với bất kỳ loại y phục, vật thực khất thực, chỗ ở, và dược phẩm trị bệnh nào.
Vì điều này, họ hướng những ác dục (corrupt wishes / những mong muốn xấu xa, bất thiện) của mình vào địa vị (status / vị trí xã hội), và vào việc có được lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng (material things, honor, and popularity / vật chất, sự tôn trọng, và tiếng tăm).
Họ cố gắng, nỗ lực, và phấn đấu để đạt được những thứ này.
Họ có ý đồ riêng (ulterior motive / mục đích che giấu) khi đi đến các gia đình thí chủ. Họ có ý đồ riêng khi ngồi xuống, khi thuyết Pháp, và ngay cả khi nín tiểu tiện, đại tiện.
Đó là bốn loại bệnh của người xuất gia.
Vậy các con nên tu tập như thế này: 'Chúng ta sẽ không có nhiều mong muốn hay bị thất vọng. Chúng ta sẽ hài lòng với bất kỳ loại y phục, vật thực khất thực, chỗ ở, và dược phẩm trị bệnh nào. Chúng ta sẽ không hướng những ác dục của mình vào địa vị, và vào việc có được lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng. Chúng ta sẽ không cố gắng, nỗ lực, và phấn đấu để đạt được những thứ này. Chúng ta sẽ chịu đựng lạnh, nóng, đói, và khát. Chúng ta sẽ chịu đựng sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát. Chúng ta sẽ chịu đựng những lời chỉ trích khó nghe, không mong muốn. Chúng ta sẽ chịu đựng những cảm giác đau đớn trên thân—như cắt, dữ dội, cấp tính, khó chịu, không vừa ý, và nguy hiểm đến tính mạng.' Đó là cách các con nên tu tập."
AN 4.158 Kinh Suy Giảm (Parihānisutta)
Tại đó, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với các Tỳ kheo: "Thưa các Hiền giả Tỳ kheo!"
"Thưa Hiền giả," họ đáp. Tôn giả Xá-lợi-phất nói điều này:
"Thưa các Hiền giả, bất kỳ Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni nào thấy bốn điều này bên trong mình thì nên kết luận: 'Các thiện pháp (skillful qualities / các phẩm chất tốt đẹp, đúng đắn) của tôi đang suy giảm. Vì đây là điều Đức Phật gọi là sự suy giảm.' Bốn là gì? Họ có nhiều tham (greed / lòng tham lam), nhiều sân (hate / lòng sân hận, ghét bỏ), và nhiều si (delusion / sự mê lầm, vô minh); và tuệ nhãn (wisdom eye / con mắt trí tuệ) của họ không thâm nhập được vào nhiều vấn đề sâu xa. Bất kỳ Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni nào thấy bốn điều này bên trong mình thì nên kết luận: 'Các thiện pháp của tôi đang suy giảm. Vì đây là điều Đức Phật gọi là sự suy giảm.'
Bất kỳ Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni nào thấy bốn điều này bên trong mình thì nên kết luận: 'Các thiện pháp của tôi không suy giảm. Vì đây là điều Đức Phật gọi là sự không suy giảm.' Bốn là gì? Lòng tham, sân, và si của họ giảm bớt; và tuệ nhãn của họ thâm nhập được vào nhiều vấn đề sâu xa. Bất kỳ Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni nào thấy bốn điều này bên trong mình thì nên kết luận: 'Các thiện pháp của tôi không suy giảm. Vì đây là điều Đức Phật gọi là sự không suy giảm.'"
AN 4.159 Kinh Tỳ Kheo Ni (Bhikkhunīsutta)
Tôi nghe như vầy. Một thời Tôn giả A-nan đang ở gần Kosambi, tại tu viện Ghosita.
Bấy giờ, một Tỳ kheo ni nói với một người đàn ông: "Xin ông vui lòng đến gặp Tôn giả A-nan, và nhân danh tôi, đảnh lễ dưới chân ngài. Hãy thưa với ngài: 'Thưa Tôn giả, Tỳ kheo ni tên là... đang bị bệnh, đau đớn, và bệnh nặng. Bà ấy xin đảnh lễ dưới chân ngài.' Và sau đó nói: 'Thưa Tôn giả, xin ngài hãy đến khu nhà của Tỳ kheo ni để thăm vị Tỳ kheo ni ấy vì lòng bi mẫn.'"
"Vâng, thưa bà," người đàn ông đó đáp. Ông ta đã làm theo lời Tỳ kheo ni yêu cầu. Tôn giả A-nan im lặng nhận lời.
Sau đó, Tôn giả A-nan đắp y, mang theo y bát, đi đến khu nhà của Tỳ kheo ni để thăm vị Tỳ kheo ni ấy. Vị Tỳ kheo ni đó thấy Tôn giả A-nan từ xa đi tới. Bà trùm kín người từ đầu đến chân và nằm xuống giường. Rồi Tôn giả A-nan đến gần bà, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau đó, Tôn giả A-nan nói với vị Tỳ kheo ni:
"Này Sư tỷ, thân này được tạo ra bởi thức ăn. Nương vào thức ăn, hãy từ bỏ thức ăn. Thân này được tạo ra bởi ái (craving / sự khao khát, ham muốn). Nương vào ái, hãy từ bỏ ái. Thân này được tạo ra bởi mạn (conceit / sự kiêu ngạo, tự cao). Nương vào mạn, hãy từ bỏ mạn. Thân này được tạo ra bởi dâm dục (sex / sự giao hợp, hành vi tình dục). Đức Phật đã dạy về việc đoạn trừ mọi pháp liên quan đến dâm dục.
'Thân này được tạo ra bởi thức ăn. Nương vào thức ăn, hãy từ bỏ thức ăn.' Đây là điều ta đã nói, nhưng tại sao ta lại nói vậy? Hãy xem một Tỳ kheo như lý tác ý (reflects rationally / hướng tâm đúng pháp) về thức ăn mà họ dùng: 'Không phải để vui chơi, đam mê, trang sức, hay trang điểm, mà chỉ để duy trì thân này, tránh tổn hại, và hỗ trợ đời sống phạm hạnh. Như vậy, ta sẽ chấm dứt cảm giác khó chịu cũ và không làm phát sinh cảm giác khó chịu mới, và ta sẽ có phương tiện để tiếp tục sống, không bị chê trách, và an trú thoải mái.' Sau một thời gian, nương vào thức ăn, họ từ bỏ thức ăn. Đó là lý do tại sao ta đã nói điều đó.
'Thân này được tạo ra bởi ái. Nương vào ái, hãy từ bỏ ái.' Đây là điều ta đã nói, nhưng tại sao ta lại nói vậy? Hãy xem một Tỳ kheo nghe điều này: 'Người ta nói rằng Tỳ kheo tên là... đã chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát (undefiled freedom of heart and freedom by wisdom / sự giải thoát của tâm và sự giải thoát bằng trí tuệ không còn ô nhiễm) ngay trong đời này. Và họ sống sau khi đã tự mình chứng ngộ bằng thắng trí do sự đoạn tận các lậu hoặc.' Vị ấy nghĩ: 'Ồ, khi nào mình cũng sẽ chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ngay trong đời này...?' Sau một thời gian, nương vào ái, họ từ bỏ ái. Đó là lý do tại sao ta đã nói điều đó.
'Thân này được tạo ra bởi mạn. Nương vào mạn, hãy từ bỏ mạn.' Đây là điều ta đã nói, nhưng tại sao ta lại nói vậy? Hãy xem một Tỳ kheo nghe điều này: 'Người ta nói rằng Tỳ kheo tên là... đã chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ngay trong đời này. Và họ sống sau khi đã tự mình chứng ngộ bằng thắng trí do sự đoạn tận các lậu hoặc.' Vị ấy nghĩ: 'Vậy thì, vị tôn giả ấy có thể chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ngay trong đời này... Tại sao mình lại không thể?' Sau một thời gian, nương vào mạn, họ từ bỏ mạn. Đó là lý do tại sao ta đã nói điều đó.
'Thân này được tạo ra bởi dâm dục. Đức Phật đã dạy về việc đoạn trừ mọi pháp liên quan đến dâm dục.'"
Bấy giờ, vị Tỳ kheo ni ấy ngồi dậy khỏi giường, vắt y qua một bên vai, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Tôn giả A-nan và nói: "Con đã phạm lỗi, thưa Tôn giả. Thật là dại dột, ngu xuẩn, và bất thiện khi con đã hành động như vậy. Xin Tôn giả chấp nhận lỗi lầm này của con, để con có thể tự chế trong tương lai."
"Đúng vậy, Sư tỷ, Sư tỷ đã phạm lỗi. Thật là dại dột, ngu xuẩn, và bất thiện khi Sư tỷ đã hành động như vậy. Nhưng vì Sư tỷ đã nhận ra lỗi lầm của mình, và đã sám hối đúng pháp, ta chấp nhận điều đó. Vì đó là sự tăng trưởng trong giới luật của bậc Thánh khi nhận ra lỗi lầm của mình, sám hối đúng pháp, và cam kết phòng hộ trong tương lai."
AN 4.160 Kinh Pháp và Luật của Bậc Thiện Thệ (Sugatavinayasutta)
"Này các Tỳ kheo, một Bậc Thiện Thệ (Holy One / Bậc đã đi đến tốt đẹp, một danh hiệu của Đức Phật) hoặc Pháp và Luật của Bậc Thiện Thệ tồn tại trên thế gian vì lợi ích và hạnh phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn đối với thế gian, vì lợi ích, phúc lợi, và hạnh phúc cho chư thiên và loài người.
Và ai là Bậc Thiện Thệ? Đó là khi một Như Lai (Realized One / Bậc đã đến như vậy, một danh hiệu của Đức Phật) xuất hiện trên thế gian, bậc A-la-hán (perfected / Bậc xứng đáng cúng dường, đã đoạn tận phiền não), bậc Chánh Đẳng Giác (fully awakened Buddha / Bậc giác ngộ hoàn toàn và đúng đắn), bậc Minh Hạnh Túc (accomplished in knowledge and conduct / đầy đủ trí tuệ và đức hạnh), bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải (knower of the world / Bậc hiểu biết thế gian), bậc Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu (supreme guide for those who wish to train / Bậc tối cao dẫn dắt những người cần được huấn luyện), bậc Thiên Nhân Sư (teacher of gods and humans / Bậc thầy của trời và người), bậc Phật (awakened / Bậc giác ngộ), bậc Thế Tôn (blessed / Bậc được tôn kính nhất trên đời). Đây là Bậc Thiện Thệ.
Và Pháp và Luật của Bậc Thiện Thệ là gì? Ngài tuyên thuyết giáo pháp toàn hảo ở phần đầu, toàn hảo ở phần giữa, và toàn hảo ở phần cuối, có ý nghĩa và văn cú rõ ràng. Và ngài trình bày đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và trong sạch. Đây là Pháp và Luật của Bậc Thiện Thệ. Đây là cách một Bậc Thiện Thệ hoặc Pháp và Luật của Bậc Thiện Thệ tồn tại trên thế gian vì lợi ích và hạnh phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn đối với thế gian, vì lợi ích, phúc lợi, và hạnh phúc cho chư thiên và loài người.
Bốn điều này dẫn đến sự suy tàn và biến mất của chánh pháp (true teaching / giáo pháp chân chính). Bốn là gì?
Thứ nhất, các Tỳ kheo học thuộc các bài kinh sai lạc, với văn cú và chữ nghĩa đặt sai chỗ. Khi văn cú và chữ nghĩa đặt sai chỗ, ý nghĩa bị hiểu sai. Đây là điều thứ nhất dẫn đến sự suy tàn và biến mất của chánh pháp.
Hơn nữa, các Tỳ kheo khó khuyên bảo, có những tính cách khiến họ khó khuyên bảo. Họ không kiên nhẫn, và không kính trọng lời chỉ dạy. Đây là điều thứ hai dẫn đến sự suy tàn và biến mất của chánh pháp.
Hơn nữa, các Tỳ kheo đa văn (very learned / nghe nhiều, học rộng)—những người thừa tự di sản, những người thuộc lòng giáo pháp, luật tạng (monastic law / bộ sưu tập các giới luật cho Tăng Ni), và các bản tóm tắt (mātikā / outlines / các đề mục tóm tắt)—không cẩn thận dạy người khác tụng đọc các bài kinh. Khi họ qua đời, các bài kinh bị cắt đứt gốc rễ, không có người kế thừa. Đây là điều thứ ba dẫn đến sự suy tàn và biến mất của chánh pháp.
Hơn nữa, các Tỳ kheo trưởng lão sống buông thả và lười biếng, dẫn đầu trong sự thối chuyển, xao lãng việc ẩn cư, không khơi dậy tinh tấn để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, thành tựu những gì chưa thành tựu, và giác ngộ những gì chưa giác ngộ. Thế hệ sau noi theo gương của họ. Họ cũng trở nên buông thả và lười biếng, dẫn đầu trong sự thối chuyển, xao lãng việc ẩn cư, không khơi dậy tinh tấn để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, thành tựu những gì chưa thành tựu, và giác ngộ những gì chưa giác ngộ. Đây là điều thứ tư dẫn đến sự suy tàn và biến mất của chánh pháp.
Đó là bốn điều dẫn đến sự suy tàn và biến mất của chánh pháp.
Bốn điều này dẫn đến sự duy trì, tồn tại, và trường tồn của chánh pháp. Bốn là gì?
Thứ nhất, các Tỳ kheo học thuộc các bài kinh đúng đắn, với văn cú và chữ nghĩa đặt đúng chỗ. Khi văn cú và chữ nghĩa đặt đúng chỗ, ý nghĩa được hiểu đúng. Đây là điều thứ nhất dẫn đến sự duy trì, tồn tại, và trường tồn của chánh pháp.
Hơn nữa, các Tỳ kheo dễ khuyên bảo, có những tính cách khiến họ dễ khuyên bảo. Họ kiên nhẫn, và kính trọng lời chỉ dạy. Đây là điều thứ hai dẫn đến sự duy trì, tồn tại, và trường tồn của chánh pháp.
Hơn nữa, các Tỳ kheo đa văn—những người thừa tự di sản, những người thuộc lòng giáo pháp, luật tạng, và các bản tóm tắt (mātikā)—cẩn thận dạy người khác tụng đọc các bài kinh. Khi họ qua đời, các bài kinh không bị cắt đứt gốc rễ, và có người kế thừa. Đây là điều thứ ba dẫn đến sự duy trì, tồn tại, và trường tồn của chánh pháp.
Hơn nữa, các Tỳ kheo trưởng lão không sống buông thả hay lười biếng, không dẫn đầu trong sự thối chuyển; thay vào đó, họ đi đầu trong việc ẩn cư, khơi dậy tinh tấn để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, thành tựu những gì chưa thành tựu, và giác ngộ những gì chưa giác ngộ. Thế hệ sau noi theo gương của họ. Họ cũng không sống buông thả hay lười biếng... Đây là điều thứ tư dẫn đến sự duy trì, tồn tại, và trường tồn của chánh pháp.
Đó là bốn điều dẫn đến sự duy trì, tồn tại, và trường tồn của chánh pháp."