Skip to content

Phẩm về Tu Tập

AN 4.161 Tóm Tắt Saṁkhittasutta

"Này các Tỳ kheo, có bốn pháp hành này (ways of practice / con đường tu tập). Bốn pháp hành nào?

1. Khổ hành (Painful practice / tu tập khổ hạnh) với chứng đắc chậm (slow insight / sự giác ngộ chậm),
2. Khổ hành với chứng đắc nhanh (swift insight / sự giác ngộ nhanh),
3. Lạc hành (Pleasant practice / tu tập an lạc) với chứng đắc chậm, và
4. Lạc hành với chứng đắc nhanh.

Đó là bốn pháp hành."

AN 4.162 Chi Tiết Vitthārasutta

"Này các Tỳ kheo, có bốn pháp hành. Bốn pháp hành nào?

1. Khổ hành với chứng đắc chậm,
2. Khổ hành với chứng đắc nhanh,
3. Lạc hành với chứng đắc chậm, và
4. Lạc hành với chứng đắc nhanh.

Và thế nào là khổ hành với chứng đắc chậm? Đó là trường hợp một người thường có nhiều tham (greed / lòng tham), sân (hate / sự tức giận), và si (delusion / sự mê lầm) mãnh liệt. Người ấy thường cảm thấy đau khổ và buồn rầu do tham, sân, và si mang lại. Năm căn (five faculties / năm khả năng tinh thần) này biểu hiện yếu ớt nơi người ấy: tín (faith / niềm tin), tấn (energy / sự tinh tấn), niệm (mindfulness / sự ghi nhớ), định (immersion / sự tập trung tâm ý), và tuệ (wisdom / trí tuệ). Vì thế, người ấy chỉ chứng đắc chậm chạp các điều kiện để chấm dứt các lậu hoặc (defilements / phiền não sâu kín) ngay trong đời này. Đây gọi là khổ hành với chứng đắc chậm.

Và thế nào là khổ hành với chứng đắc nhanh? Đó là trường hợp một người thường có nhiều tham, sân, và si mãnh liệt. Người ấy thường cảm thấy đau khổ và buồn rầu do tham, sân, và si mang lại. Và năm căn này biểu hiện mạnh mẽ nơi người ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Vì thế, người ấy chứng đắc nhanh chóng các điều kiện để chấm dứt các lậu hoặc ngay trong đời này. Đây gọi là khổ hành với chứng đắc nhanh.

Và thế nào là lạc hành với chứng đắc chậm? Đó là trường hợp một người thường không có nhiều tham, sân, và si mãnh liệt. Người ấy ít khi cảm thấy đau khổ và buồn rầu do tham, sân, và si mang lại. Năm căn này biểu hiện yếu ớt nơi người ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Vì thế, người ấy chỉ chứng đắc chậm chạp các điều kiện để chấm dứt các lậu hoặc ngay trong đời này. Đây gọi là lạc hành với chứng đắc chậm.

Và thế nào là lạc hành với chứng đắc nhanh? Đó là trường hợp một người thường không có nhiều tham, sân, và si mãnh liệt. Người ấy ít khi cảm thấy đau khổ và buồn rầu do tham, sân, và si mang lại. Năm căn này biểu hiện mạnh mẽ nơi người ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Vì thế, người ấy chứng đắc nhanh chóng các điều kiện để chấm dứt các lậu hoặc ngay trong đời này. Đây gọi là lạc hành với chứng đắc nhanh.

Đó là bốn pháp hành."

AN 4.163 Bất Tịnh Asubhasutta

"Này các Tỳ kheo, có bốn pháp hành. Bốn pháp hành nào?

1. Khổ hành với chứng đắc chậm,
2. Khổ hành với chứng đắc nhanh,
3. Lạc hành với chứng đắc chậm, và
4. Lạc hành với chứng đắc nhanh.

Và thế nào là khổ hành với chứng đắc chậm? Đó là trường hợp một vị Tỳ kheo thiền quán về thân bất tịnh (ugliness of the body / sự không sạch sẽ của thân), nhận thức về vật thực đáng nhờm gớm (repulsiveness of food / sự đáng ghê tởm của thức ăn), nhận thức về sự không ưa thích đối với toàn thế giới (dissatisfaction with the whole world / sự không hài lòng với mọi thứ trên đời), quán sát về sự vô thường trong tất cả các pháp hữu vi (impermanence of all conditions / sự không bền vững của mọi hiện tượng được tạo tác), và đã thiết lập vững chắc tưởng về cái chết (perception of their own death / nhận thức về cái chết của chính mình). Vị ấy nương tựa vào năm lực của bậc hữu học (powers of a trainee / sức mạnh của người còn đang tu học) này: tín, tàm (conscience / sự hổ thẹn tội lỗi), quý (prudence / sự ghê sợ tội lỗi), tấn, và tuệ. Nhưng năm căn này biểu hiện yếu ớt nơi vị ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Vì thế, vị ấy chỉ chứng đắc chậm chạp các điều kiện để chấm dứt các lậu hoặc ngay trong đời này. Đây gọi là khổ hành với chứng đắc chậm.

Và thế nào là khổ hành với chứng đắc nhanh? Đó là trường hợp một vị Tỳ kheo thiền quán về thân bất tịnh, nhận thức về vật thực đáng nhờm gớm, nhận thức về sự không ưa thích đối với toàn thế giới, quán sát về sự vô thường trong tất cả các pháp hữu vi, và đã thiết lập vững chắc tưởng về cái chết. Vị ấy nương tựa vào năm lực của bậc hữu học này: tín, tàm, quý, tấn, và tuệ. Và năm căn này biểu hiện mạnh mẽ nơi vị ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Vì thế, vị ấy chứng đắc nhanh chóng các điều kiện để chấm dứt các lậu hoặc ngay trong đời này. Đây gọi là khổ hành với chứng đắc nhanh.

Và thế nào là lạc hành với chứng đắc chậm? Đó là trường hợp một vị Tỳ kheo, hoàn toàn ly dục (secluded from sensual pleasures / xa lìa các ham muốn giác quan), ly bất thiện pháp (secluded from unskillful qualities / xa lìa các trạng thái tâm xấu ác), chứng và trú sơ thiền (first absorption / tầng thiền thứ nhất), một trạng thái có hỷ (rapture / niềm vui thích) và lạc (bliss / sự sung sướng, hạnh phúc) sinh do ly dục (born of seclusion / sinh ra từ sự xa lìa), có tầm (placing the mind / sự hướng tâm đến đối tượng) và tứ (keeping it connected / sự duy trì tâm trên đối tượng). Khi tầm và tứ lắng dịu, vị ấy chứng và trú nhị thiền (second absorption / tầng thiền thứ hai), một trạng thái có hỷ và lạc sinh do định (born of immersion / sinh ra từ sự tập trung), có nội tĩnh (internal clarity / sự yên lặng bên trong) và nhất tâm (mind at one / tâm hợp nhất), không tầm không tứ. Và với sự ly hỷ (fading away of rapture / phai nhạt của niềm vui thích), vị ấy chứng và trú tam thiền (third absorption / tầng thiền thứ ba), nơi vị ấy trú với xả (equanimity / trạng thái tâm quân bình, không dao động), chánh niệm (mindful / sự ghi nhớ đúng đắn) và tỉnh giác (aware / sự biết rõ), thân cảm nhận sự lạc mà bậc Thánh (noble ones / những vị đã giác ngộ) tuyên bố: 'Người có xả và niệm trú trong lạc'. Từ bỏ lạc và khổ, chấm dứt hỷ và ưu trước kia, vị ấy chứng và trú tứ thiền (fourth absorption / tầng thiền thứ tư), không khổ không lạc, với xả niệm thanh tịnh (pure equanimity and mindfulness / sự quân bình và ghi nhớ trong sáng). Vị ấy nương tựa vào năm lực của bậc hữu học này: tín, tàm, quý, tấn, và tuệ. Nhưng năm căn này biểu hiện yếu ớt nơi vị ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Vì thế, vị ấy chỉ chứng đắc chậm chạp các điều kiện để chấm dứt các lậu hoặc ngay trong đời này. Đây gọi là lạc hành với chứng đắc chậm.

Và thế nào là lạc hành với chứng đắc nhanh? Đó là trường hợp một vị Tỳ kheo... chứng và trú sơ thiền... nhị thiền... tam thiền... tứ thiền... Vị ấy nương tựa vào năm lực của bậc hữu học này: tín, tàm, quý, tấn, và tuệ. Và năm căn này biểu hiện mạnh mẽ nơi vị ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Vì thế, vị ấy chứng đắc nhanh chóng các điều kiện để chấm dứt các lậu hoặc ngay trong đời này. Đây gọi là lạc hành với chứng đắc nhanh.

Đó là bốn pháp hành."

AN 4.164 Kham Nhẫn (1) Paṭhamakhamasutta

"Này các Tỳ kheo, có bốn pháp hành. Bốn pháp hành nào? Pháp hành không kham nhẫn (Impatient practice / tu tập thiếu kiên nhẫn), pháp hành kham nhẫn (Patient practice / tu tập kiên nhẫn), pháp hành điều phục (Taming practice / tu tập chế ngự), và pháp hành an tịnh (Calming practice / tu tập làm lắng dịu).

Và thế nào là pháp hành không kham nhẫn? Đó là khi có người mắng nhiếc, làm phiền, hay tranh cãi với vị ấy, vị ấy liền mắng nhiếc, làm phiền, hay tranh cãi lại họ. Đây gọi là pháp hành không kham nhẫn.

Và thế nào là pháp hành kham nhẫn? Đó là khi có kẻ mắng nhiếc, làm phiền, hay tranh cãi với vị ấy, vị ấy không mắng nhiếc, làm phiền, hay tranh cãi lại họ. Đây gọi là pháp hành kham nhẫn.

Và thế nào là pháp hành điều phục? Khi một vị Tỳ kheo thấy một hình ảnh bằng mắt, vị ấy không nắm bắt tướng chung và tướng riêng (features and details / đặc điểm tổng quát và chi tiết). Nếu nhãn căn (faculty of sight / khả năng nhìn của mắt) không được phòng hộ (unrestrained / không được bảo vệ), các ác bất thiện pháp (bad unskillful qualities / các trạng thái tâm xấu ác) như tham ái (covetousness / lòng tham muốn) và ưu (displeasure / sự buồn khổ, không hài lòng) sẽ xâm chiếm. Vì lý do này, vị ấy thực hành sự chế ngự (practice restraint / tu tập sự kiểm soát), phòng hộ (protecting / bảo vệ) nhãn căn, và đạt được sự chế ngự (achieving restraint / thành tựu sự kiểm soát) đối với nó. Khi nghe một âm thanh bằng tai... Khi ngửi một mùi hương bằng mũi... Khi nếm một vị bằng lưỡi... Khi cảm nhận một sự xúc chạm bằng thân... Khi biết một ý niệm bằng ý căn (faculty of mind / khả năng nhận thức của ý), vị ấy không nắm bắt tướng chung và tướng riêng. Nếu ý căn không được phòng hộ, các ác bất thiện pháp như tham ái và ưu sẽ xâm chiếm. Vì lý do này, vị ấy thực hành sự chế ngự, phòng hộ ý căn, và đạt được sự chế ngự đối với nó. Đây gọi là pháp hành điều phục.

Và thế nào là pháp hành an tịnh? Đó là trường hợp một vị Tỳ kheo không chấp nhận một dục tầm (sensual thought / suy nghĩ về ham muốn), sân tầm (malicious thought / suy nghĩ về sân hận), hay hại tầm (cruel thought / suy nghĩ về làm hại). Vị ấy không chấp nhận bất kỳ ác bất thiện pháp nào đã khởi lên, mà từ bỏ (give them up / loại bỏ) chúng, trừ diệt (get rid of them / làm cho chúng biến mất) chúng, làm cho an tịnh (calm them / làm cho lắng dịu) chúng, loại bỏ (eliminate them / xóa bỏ) chúng, và làm cho không còn (obliterate them / làm cho tiêu tan) chúng. Đây gọi là pháp hành an tịnh.

Đó là bốn pháp hành."

AN 4.165 Kham Nhẫn (2) Dutiyakhamasutta

"Này các Tỳ kheo, có bốn pháp hành. Bốn pháp hành nào? Pháp hành không kham nhẫn, pháp hành kham nhẫn, pháp hành điều phục, và pháp hành an tịnh.

Và thế nào là pháp hành không kham nhẫn? Đó là khi một người không thể chịu đựng được lạnh, nóng, đói, và khát. Họ không thể chịu đựng được sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, nắng, và loài bò sát. Họ không thể chịu đựng được những lời chỉ trích thô lỗ và không mong muốn. Và họ không thể chịu đựng được nỗi đau thể xác---nhói buốt, dữ dội, cấp tính, khó chịu, không vừa ý, và nguy hiểm đến tính mạng. Đây gọi là pháp hành không kham nhẫn.

Và thế nào là pháp hành kham nhẫn? Đó là khi một người chịu đựng được lạnh, nóng, đói, và khát. Họ chịu đựng được sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, nắng, và loài bò sát. Họ chịu đựng được những lời chỉ trích thô lỗ và không mong muốn. Và họ chịu đựng được nỗi đau thể xác---nhói buốt, dữ dội, cấp tính, khó chịu, không vừa ý, và nguy hiểm đến tính mạng. Đây gọi là pháp hành kham nhẫn.

Và thế nào là pháp hành điều phục? Khi một vị Tỳ kheo thấy một hình ảnh bằng mắt, vị ấy không nắm bắt tướng chung và tướng riêng... Khi nghe một âm thanh bằng tai... Khi ngửi một mùi hương bằng mũi... Khi nếm một vị bằng lưỡi... Khi cảm nhận một sự xúc chạm bằng thân... Khi biết một ý niệm bằng ý căn, vị ấy không nắm bắt tướng chung và tướng riêng. Nếu ý căn không được phòng hộ, các ác bất thiện pháp như tham ái và ưu sẽ xâm chiếm. Vì lý do này, vị ấy thực hành sự chế ngự, phòng hộ ý căn, và đạt được sự chế ngự đối với nó. Đây gọi là pháp hành điều phục.

Và thế nào là pháp hành an tịnh? Đó là trường hợp một vị Tỳ kheo không chấp nhận một dục tầm, sân tầm, hay hại tầm. Vị ấy không chấp nhận bất kỳ ác bất thiện pháp nào đã khởi lên, mà từ bỏ chúng, trừ diệt chúng, làm cho an tịnh chúng, loại bỏ chúng, và làm cho không còn chúng. Đây gọi là pháp hành an tịnh.

Đó là bốn pháp hành."

AN 4.166 Cả Hai Ubhayasutta

"Này các Tỳ kheo, có bốn pháp hành. Bốn pháp hành nào?

1. Khổ hành với chứng đắc chậm,
2. Khổ hành với chứng đắc nhanh,
3. Lạc hành với chứng đắc chậm, và
4. Lạc hành với chứng đắc nhanh.

Trong số này, khổ hành với chứng đắc chậm được cho là thấp kém về cả hai phương diện: vì nó khổ đau và vì nó chậm chạp. Pháp hành này được cho là thấp kém về cả hai phương diện.

Khổ hành với chứng đắc nhanh được cho là thấp kém vì nó khổ đau.

Lạc hành với chứng đắc chậm được cho là thấp kém vì nó chậm chạp.

Lạc hành với chứng đắc nhanh được cho là ưu việt về cả hai phương diện: vì nó an lạc, và vì nó nhanh chóng. Pháp hành này được cho là ưu việt về cả hai phương diện.

Đó là bốn pháp hành."

AN 4.167 Pháp Hành của Moggallāna Mahāmoggallānasutta

Khi ấy, Tôn giả Sāriputta đi đến chỗ Tôn giả Mahāmoggallāna, và chào hỏi xã giao với ngài. Sau khi chào hỏi và nói chuyện thân mật xong, Tôn giả Sāriputta ngồi xuống một bên và nói với Tôn giả Mahāmoggallāna:

"Thưa Hiền giả Moggallāna, có bốn pháp hành. Bốn pháp hành nào?

1. Khổ hành với chứng đắc chậm,
2. Khổ hành với chứng đắc nhanh,
3. Lạc hành với chứng đắc chậm, và
4. Lạc hành với chứng đắc nhanh.

Đó là bốn pháp hành. Hiền giả đã nương tựa vào pháp hành nào trong bốn pháp hành này để giải thoát tâm khỏi các lậu hoặc do không còn chấp thủ?"

"Thưa Hiền giả Sāriputta... Tôi đã nương tựa vào khổ hành với chứng đắc nhanh để giải thoát tâm khỏi các lậu hoặc do không còn chấp thủ."

AN 4.168 Pháp Hành của Sāriputta Sāriputtasutta

Khi ấy, Tôn giả Mahāmoggallāna đi đến chỗ Tôn giả Sāriputta, và chào hỏi xã giao với ngài. Sau khi chào hỏi và nói chuyện thân mật xong, Tôn giả Mahāmoggallāna ngồi xuống một bên, và nói với Tôn giả Sāriputta:

"Thưa Hiền giả Sāriputta, có bốn pháp hành. Bốn pháp hành nào?

1. Khổ hành với chứng đắc chậm,
2. Khổ hành với chứng đắc nhanh,
3. Lạc hành với chứng đắc chậm, và
4. Lạc hành với chứng đắc nhanh.

Đó là bốn pháp hành. Hiền giả đã nương tựa vào pháp hành nào trong bốn pháp hành này để giải thoát tâm khỏi các lậu hoặc do không còn chấp thủ?"

"Thưa Hiền giả Moggallāna... Tôi đã nương tựa vào lạc hành với chứng đắc nhanh để giải thoát tâm khỏi các lậu hoặc do không còn chấp thủ."

AN 4.169 Có Nỗ Lực Gia Công Sasaṅkhārasutta

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người này được tìm thấy trên đời. Bốn hạng người nào?

1. Người viên tịch (fully extinguished / đạt Niết-bàn hoàn toàn) ngay trong đời này (in this very life / ngay trong kiếp sống hiện tại) có hành (by making extra effort / cần nỗ lực gia công).
2. Người viên tịch sau khi thân hoại mạng chung (when the body breaks up / sau khi chết) có hành.
3. Người viên tịch ngay trong đời này vô hành (without making extra effort / không cần nỗ lực gia công).
4. Người viên tịch sau khi thân hoại mạng chung vô hành.\

Và thế nào là người viên tịch ngay trong đời này có hành? Đó là trường hợp một vị Tỳ kheo thiền quán về thân bất tịnh, nhận thức về vật thực đáng nhờm gớm, nhận thức về sự không ưa thích đối với toàn thế giới, quán sát về sự vô thường trong tất cả các pháp hữu vi, và đã thiết lập vững chắc tưởng về cái chết. Vị ấy nương tựa vào năm lực của bậc hữu học này: tín, tàm, quý, tấn, và tuệ. Và năm căn này biểu hiện mạnh mẽ nơi vị ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Do sức mạnh của năm căn, vị ấy viên tịch ngay trong đời này có hành. Đó là cách một người viên tịch ngay trong đời này có hành.

Thế nào là người viên tịch sau khi thân hoại mạng chung có hành? Đó là trường hợp một vị Tỳ kheo thiền quán về thân bất tịnh, nhận thức về vật thực đáng nhờm gớm, nhận thức về sự không ưa thích đối với toàn thế giới, quán sát về sự vô thường trong tất cả các pháp hữu vi, và đã thiết lập vững chắc tưởng về cái chết. Vị ấy nương tựa vào năm lực của bậc hữu học này: tín, tàm, quý, tấn, và tuệ. Nhưng năm căn này biểu hiện yếu ớt nơi vị ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Do sự yếu ớt của năm căn, vị ấy viên tịch sau khi thân hoại mạng chung có hành. Đó là cách một người viên tịch sau khi thân hoại mạng chung có hành.

Và thế nào là người viên tịch ngay trong đời này vô hành? Đó là trường hợp một vị Tỳ kheo... chứng và trú sơ thiền... nhị thiền... tam thiền... tứ thiền... Vị ấy nương tựa vào năm lực của bậc hữu học này: tín, tàm, quý, tấn, và tuệ. Và năm căn này biểu hiện mạnh mẽ nơi vị ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Do sức mạnh của năm căn, vị ấy viên tịch ngay trong đời này vô hành. Đó là cách một người viên tịch ngay trong đời này vô hành.

Và thế nào là người viên tịch sau khi thân hoại mạng chung vô hành? Đó là trường hợp một vị Tỳ kheo... chứng và trú sơ thiền... nhị thiền... tam thiền... tứ thiền... Vị ấy nương tựa vào năm lực của bậc hữu học này: tín, tàm, quý, tấn, và tuệ. Nhưng năm căn này biểu hiện yếu ớt nơi vị ấy: tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Do sự yếu ớt của năm căn, vị ấy viên tịch sau khi thân hoại mạng chung vô hành. Đó là cách một người viên tịch sau khi thân hoại mạng chung vô hành.

Đó là bốn hạng người được tìm thấy trên đời."

AN 4.170 Song Hành Yuganaddhasutta

Tôi nghe như vầy. Một thời Tôn giả Ānanda trú gần Kosambī, tại Tu viện Ghosita. Tại đó, Tôn giả Ānanda gọi các Tỳ kheo: "Này các Hiền giả Tỳ kheo!"

"Thưa Hiền giả," họ đáp. Tôn giả Ānanda nói điều này:

"Này các Hiền giả, tất cả các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng họ đã đạt được A-la-hán quả (perfection / quả vị giải thoát hoàn toàn), đều đã làm như vậy bằng một trong bốn con đường này.

Bốn con đường nào?

Trường hợp một vị Tỳ kheo phát triển chỉ (serenity / sự tĩnh lặng của tâm) trước quán (discernment / sự thấy rõ bản chất các pháp). Khi vị ấy làm như vậy, đạo (path / con đường dẫn đến giác ngộ) sinh khởi nơi vị ấy. Vị ấy tu tập (cultivate / rèn luyện), phát triển (develop / làm lớn mạnh), và làm cho sung mãn (make much of it / thực hành thường xuyên) đạo ấy. Bằng cách đó, vị ấy từ bỏ các kiết sử (fetters / những trói buộc tâm linh) và loại trừ các tùy miên (underlying tendencies / những khuynh hướng phiền não ngấm ngầm).

Một vị Tỳ kheo khác phát triển quán trước chỉ. Khi vị ấy làm như vậy, đạo sinh khởi nơi vị ấy. Vị ấy tu tập, phát triển, và làm cho sung mãn đạo ấy. Bằng cách đó, vị ấy từ bỏ các kiết sử và loại trừ các tùy miên.

Một vị Tỳ kheo khác phát triển chỉ và quán song hành (in conjunction / cùng lúc). Khi vị ấy làm như vậy, đạo sinh khởi nơi vị ấy. Vị ấy tu tập, phát triển, và làm cho sung mãn đạo ấy. Bằng cách đó, vị ấy từ bỏ các kiết sử và loại trừ các tùy miên.

Một vị Tỳ kheo khác có tâm bị trạo cử về pháp (restlessness to realize the teaching / sự dao động, thôi thúc muốn chứng ngộ Pháp) chi phối. Nhưng đến một lúc, tâm của vị ấy được nội tâm lắng dịu (stilled internally / yên lặng bên trong); nó an trú (settles / định tĩnh), nhất tâm (unifies / hợp nhất), và định tĩnh (becomes immersed in samādhi / nhập vào định). Đạo sinh khởi nơi vị ấy. Vị ấy tu tập, phát triển, và làm cho sung mãn đạo ấy. Bằng cách đó, vị ấy từ bỏ các kiết sử và loại trừ các tùy miên.

Tất cả các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng họ đã đạt được A-la-hán quả, đều đã làm như vậy bằng một trong bốn con đường này."