32. Đại Kinh Rừng Gosinga
(Mahāgosinga Sutta)
[212] 1. Tôi nghe như vầy. Một thời Thế Tôn trú ở Rừng cây Sa-la Gosinga, cùng với một số vị trưởng lão đệ tử rất nổi tiếng - tôn giả Sāriputta, tôn giả Mahā Moggallāna, tôn giả Mahā Kassapa, tôn giả Anuruddha, tôn giả Revata, tôn giả Ānanda, và các vị trưởng lão đệ tử rất nổi tiếng khác.
2. Rồi, khi trời đã về chiều, tôn giả Mahā Moggallāna sau khi thiền định xong, đi đến chỗ tôn giả Mahā Kassapa, và nói với ngài: "Này hiền giả Kassapa, chúng ta hãy đến chỗ tôn giả Sāriputta để nghe Pháp." - "Vâng, thưa hiền giả," tôn giả Mahā Kassapa trả lời. Sau đó, tôn giả Mahā Moggallāna, tôn giả Mahā Kassapa, và tôn giả Anuruddha đi đến chỗ tôn giả Sāriputta để nghe Pháp.
3. Tôn giả Ānanda thấy các vị ấy đi đến chỗ tôn giả Sāriputta để nghe Pháp. Ngài liền đi đến chỗ tôn giả Revata và nói với ngài: "Này hiền giả Revata, những bậc chân nhân kia đang đi đến chỗ tôn giả Sāriputta để nghe Pháp. Chúng ta cũng hãy đến chỗ tôn giả Sāriputta để nghe Pháp." - "Vâng, thưa hiền giả," tôn giả Revata trả lời. Sau đó, tôn giả Revata và tôn giả Ānanda đi đến chỗ tôn giả Sāriputta để nghe Pháp.
4. Tôn giả Sāriputta thấy tôn giả Revata và tôn giả Ānanda đang đi đến từ đằng xa, bèn nói với tôn giả Ānanda: "Hãy đến đây, tôn giả Ānanda, chào mừng tôn giả Ānanda, vị thị giả của Thế Tôn, người luôn ở bên cạnh Thế Tôn. Này hiền giả Ānanda, Rừng cây Sa-la Gosinga này thật khả ái, đêm nay trăng sáng, cây sa-la đang nở rộ, và hương thơm của chư thiên dường như đang lan tỏa trong không khí. Này hiền giả Ānanda, vị tỳ kheo (monks-bhikkhus-nhà sư) như thế nào có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?" "Ở đây, này hiền giả [213] Sāriputta, một vị tỳ kheo học rộng, nhớ những gì đã học, và củng cố những gì đã học. Những giáo lý nào tốt đẹp ở phần đầu, tốt đẹp ở phần giữa, và tốt đẹp ở phần cuối, với ý nghĩa và văn cú đúng đắn, và khẳng định một đời sống thánh thiện hoàn toàn viên mãn và thanh tịnh - những giáo lý như vậy vị ấy đã học rộng, ghi nhớ, thông thạo bằng lời nói, quán xét bằng tâm, và thâm nhập rõ ràng bằng tri kiến. Và vị ấy giảng dạy Pháp cho bốn chúng với những lời lẽ và văn cú mạch lạc, chặt chẽ để diệt trừ các khuynh hướng ngầm [^357]. Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ."
5. Khi nghe vậy, tôn giả Sāriputta nói với tôn giả Revata như sau: "Này hiền giả Revata, tôn giả Ānanda đã nói theo sự ứng tác của riêng mình [^358]. Bây giờ chúng tôi hỏi tôn giả Revata: Này hiền giả Revata, Rừng cây Sa-la Gosinga này thật khả ái, đêm nay trăng sáng, cây sa-la đang nở rộ, và hương thơm của chư thiên dường như đang lan tỏa trong không khí. Này hiền giả Revata, vị tỳ kheo như thế nào có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?"
"Ở đây, này hiền giả Sāriputta, một vị tỳ kheo thích thú thiền định độc cư và hoan hỷ trong thiền định độc cư; vị ấy chuyên tâm vào sự an tịnh nội tâm, không xao lãng thiền định, có trí tuệ, và sống trong những túp lều trống [^359]. Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ."
6. Khi nghe vậy, tôn giả Sāriputta nói với tôn giả Anuruddha như sau: "Này hiền giả Anuruddha, tôn giả Revata đã nói theo sự ứng tác của riêng mình. Bây giờ chúng tôi hỏi tôn giả Anuruddha: Này hiền giả Anuruddha, Rừng cây Sa-la Gosinga này thật khả ái... Vị tỳ kheo như thế nào, này hiền giả Anuruddha, có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?"
"Ở đây, này hiền giả Sāriputta, với thiên nhãn thanh tịnh, vượt qua mắt người thường, một vị tỳ kheo quán sát một ngàn thế giới. Giống như một người có thị lực tốt, khi leo lên lầu cao của cung điện, có thể nhìn thấy một ngàn bánh xe, cũng vậy, với thiên nhãn thanh tịnh, vượt qua mắt người thường, một vị tỳ kheo quán sát một ngàn thế giới [^360]. Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ."
7. Khi nghe vậy, tôn giả Sāriputta nói với tôn giả Mahā Kassapa như sau: "Này hiền giả Kassapa, tôn giả Anuruddha đã nói theo sự ứng tác của riêng mình. Bây giờ chúng tôi hỏi tôn giả Mahā Kassapa: Này hiền giả Kassapa, Rừng cây Sa-la Gosinga này thật khả ái... Vị tỳ kheo như thế nào, này hiền giả Kassapa, [214] có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?"
"Ở đây, này hiền giả Sāriputta, một vị tỳ kheo tự mình sống trong rừng và tán thán việc sống trong rừng; vị ấy tự mình sống bằng đồ ăn khất thực và tán thán việc ăn đồ ăn khất thực; vị ấy tự mình mặc y phấn tảo và tán thán việc mặc y phấn tảo; vị ấy tự mình mặc y tam y và tán thán việc mặc y tam y [^361]; vị ấy tự mình có ít mong muốn và tán thán việc ít mong muốn; vị ấy tự mình sống tri túc và tán thán sự tri túc; vị ấy tự mình sống ẩn dật và tán thán sự ẩn dật; vị ấy tự mình sống xa lánh xã hội và tán thán sự xa lánh xã hội; vị ấy tự mình tinh tấn và tán thán sự tinh tấn; vị ấy tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh; vị ấy tự mình thành tựu định và tán thán sự thành tựu định; vị ấy tự mình thành tựu trí tuệ và tán thán sự thành tựu trí tuệ; vị ấy tự mình thành tựu giải thoát và tán thán sự thành tựu giải thoát; vị ấy tự mình thành tựu tri kiến giải thoát (knowledge and vision of deliverance - kiến thức và tầm nhìn về sự giải thoát) và tán thán sự thành tựu tri kiến giải thoát. Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ."
8. Khi nghe vậy, tôn giả Sāriputta nói với tôn giả Mahā Moggallāna như sau: "Này hiền giả Moggallāna, tôn giả Mahā Kassapa đã nói theo sự ứng tác của riêng mình. Bây giờ chúng tôi hỏi tôn giả Mahā Moggallāna: Này hiền giả Moggallāna, Rừng cây Sa-la Gosinga này thật khả ái... Vị tỳ kheo như thế nào, này hiền giả Moggallāna, có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?"
9. Khi nghe vậy, tôn giả Mahā Moggallāna nói với tôn giả Sāriputta như sau: "Này hiền giả Sāriputta, tất cả chúng ta đều đã nói theo sự ứng tác của riêng mình. Bây giờ chúng tôi hỏi tôn giả Sāriputta: Này hiền giả Sāriputta, Rừng cây Sa-la Gosinga này thật khả ái, đêm nay trăng sáng, cây sa-la đang nở rộ, và hương thơm của chư thiên dường như đang lan tỏa trong không khí. Vị tỳ kheo như thế nào, này hiền giả Sariputta, có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?"
"Ở đây, này hiền giả Moggallāna, một vị tỳ kheo làm chủ tâm mình, không để tâm làm chủ mình. Vào buổi sáng, vị ấy an trú trong bất kỳ sự an trú hay thành tựu nào mà vị ấy muốn [215] an trú vào buổi sáng; vào buổi trưa, vị ấy an trú trong bất kỳ sự an trú hay thành tựu nào mà vị ấy muốn an trú vào buổi trưa; vào buổi tối, vị ấy an trú trong bất kỳ sự an trú hay thành tựu nào mà vị ấy muốn an trú vào buổi tối. Giả sử một vị vua hoặc một vị đại thần của vua có một rương đầy quần áo với nhiều màu sắc khác nhau. Vào buổi sáng, vị ấy có thể mặc bất kỳ bộ quần áo nào mà vị ấy muốn mặc vào buổi sáng; vào buổi trưa, vị ấy có thể mặc bất kỳ bộ quần áo nào mà vị ấy muốn mặc vào buổi trưa; vào buổi tối, vị ấy có thể mặc bất kỳ bộ quần áo nào mà vị ấy muốn mặc vào buổi tối. Cũng vậy, một vị tỳ kheo làm chủ tâm mình, không để tâm làm chủ mình. Vào buổi sáng... vào buổi trưa... vào buổi tối, vị ấy an trú trong bất kỳ sự an trú hay thành tựu nào mà vị ấy muốn an trú vào buổi tối. Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ."
10. Sau đó, tôn giả Sāriputta nói với các vị tôn giả kia như sau: "Này các hiền giả, tất cả chúng ta đều đã nói theo sự ứng tác của riêng mình. Chúng ta hãy đến chỗ Thế Tôn và trình bày việc này với Ngài. Thế Tôn trả lời như thế nào, chúng ta hãy ghi nhớ như vậy." "Vâng, thưa hiền giả," các vị ấy trả lời. Sau đó, các vị tôn giả ấy đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Ngài, họ ngồi xuống một bên. Tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
11. "Bạch Thế Tôn, tôn giả Revata và tôn giả Ananda đã đến chỗ con để nghe Pháp. Con thấy các vị ấy đang đi đến từ đằng xa và [216] nói với tôn giả Ananda: 'Hãy đến đây, tôn giả Ananda, chào mừng tôn giả Ananda... Này hiền giả Ananda, Rừng cây Sa-la Gosinga này thật khả ái... Vị tỳ kheo như thế nào, này hiền giả Ananda, có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?' Khi được hỏi, bạch Thế Tôn, tôn giả Ananda trả lời: 'Ở đây, này hiền giả Sariputta, một vị tỳ kheo học rộng... (như trong §4)... Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ.'"
"Lành thay, lành thay, Sāriputta. Ānanda, nói đúng, nên nói như vậy. Vì Ānanda học rộng, nhớ những gì đã học, và củng cố những gì đã học.
Những giáo lý nào tốt đẹp ở phần đầu, tốt đẹp ở phần giữa, và tốt đẹp ở phần cuối, với ý nghĩa và văn cú đúng đắn, và khẳng định một đời sống thánh thiện hoàn toàn viên mãn và thanh tịnh - những giáo lý như vậy vị ấy đã học rộng, ghi nhớ, thông thạo bằng lời nói, quán xét bằng tâm, và thâm nhập rõ ràng bằng tri kiến. Và vị ấy giảng dạy Pháp cho bốn chúng với những lời lẽ và văn cú mạch lạc, chặt chẽ để diệt trừ các khuynh hướng ngầm."
12. "Khi nghe vậy, bạch Thế Tôn, con nói với tôn giả Revata như sau: 'Này hiền giả Revata... Vị tỳ kheo như thế nào có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?' Và tôn giả Revata trả lời: 'Ở đây, này hiền giả Sāriputta, một vị tỳ kheo thích thú thiền định độc cư...(như trong §5)... Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ.'"
"Lành thay, lành thay, Sāriputta. Revata, nói đúng, nên nói như vậy. Vì Revata thích thú thiền định độc cư, hoan hỷ trong thiền định độc cư, chuyên tâm vào sự an tịnh nội tâm, không xao lãng thiền định, có trí tuệ, và sống trong những túp lều trống." [217]
13. "Khi nghe vậy, bạch Thế Tôn, con nói với tôn giả Anuruddha như sau: 'Này hiền giả Anuruddha... Vị tỳ kheo như thế nào có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?' Và tôn giả Anuruddha trả lời: 'Ở đây, này hiền giả Sāriputta, với thiên nhãn...(như trong §6)...Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ.'"
"Lành thay, lành thay, Sāriputta. Anuruddha, nói đúng, nên nói như vậy. Vì với thiên nhãn thanh tịnh, vượt qua mắt người thường, Anuruddha quán sát một ngàn thế giới."
14. "Khi nghe vậy, bạch Thế Tôn, con nói với tôn giả Mahā Kassapa như sau: 'Này hiền giả Kassapa... Vị tỳ kheo như thế nào có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?' Và tôn giả Mahā Kassapa trả lời: 'Ở đây, này hiền giả Sāriputta, một vị tỳ kheo tự mình sống trong rừng...(như trong §7)... Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ.'" [218]
"Lành thay, lành thay, Sāriputta. Kassapa, nói đúng, nên nói như vậy. Vì Kassapa tự mình sống trong rừng và tán thán việc sống trong rừng... vị ấy tự mình thành tựu tri kiến giải thoát và tán thán sự thành tựu tri kiến giải thoát."
15. "Khi nghe vậy, bạch Thế Tôn, con nói với tôn giả Mahā Moggallāna như sau: 'Này hiền giả Moggallāna...Vị tỳ kheo như thế nào có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?' Và tôn giả Mahā Moggallāna trả lời: 'Ở đây, này hiền giả Sāriputta, hai vị tỳ kheo đàm luận về thắng pháp (higher Dhamma - Pháp cao siêu)...(như trong §8)...Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ.'"
"Lành thay, lành thay, Sāriputta. Moggallāna, nói đúng, nên nói như vậy. Vì Moggallāna là người đàm luận về Pháp."
16. Khi nghe vậy, tôn giả Mahā Moggallāna bạch Thế Tôn: "Sau đó, bạch Thế Tôn, con nói với tôn giả Sāriputta như sau: 'Này hiền giả Sāriputta...Vị tỳ kheo như thế nào có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ?' Và tôn giả Sāriputta trả lời: 'Ở đây, này hiền giả Moggallāna, một vị tỳ kheo làm chủ tâm mình...[219] (như trong §9)...Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ.'"
"Lành thay, lành thay, Moggallāna. Sāriputta, nói đúng, nên nói như vậy. Vì Sāriputta làm chủ tâm mình, không để tâm làm chủ mình. Vào buổi sáng, vị ấy an trú trong bất kỳ sự an trú hay thành tựu nào mà vị ấy muốn an trú vào buổi sáng; vào buổi trưa, vị ấy an trú trong bất kỳ sự an trú hay thành tựu nào mà vị ấy muốn an trú vào buổi trưa; vào buổi tối, vị ấy an trú trong bất kỳ sự an trú hay thành tựu nào mà vị ấy muốn an trú vào buổi tối."
17. Khi nghe vậy, tôn giả Sāriputta hỏi Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, ai trong chúng con đã nói đúng?"
"Tất cả các con đều đã nói đúng, Sāriputta, mỗi người theo cách riêng của mình. Cũng hãy nghe từ ta vị tỳ kheo như thế nào có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ. Ở đây, Sāriputta, khi một vị tỳ kheo đã đi khất thực về, sau bữa ăn, vị ấy ngồi xuống, khoanh chân, giữ thân thẳng, và an trú chánh niệm (establishing mindfulness - thiết lập sự tỉnh giác) trước mặt, quyết định: 'Ta sẽ không phá vỡ tư thế ngồi này cho đến khi, nhờ không chấp thủ (not clinging - không bám víu), tâm ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc (taints - ô nhiễm).' Vị tỳ kheo như vậy có thể làm cho Rừng cây Sa-la Gosinga này trở nên rực rỡ. [^363]
Đó là những gì Thế Tôn đã nói. Các vị tôn giả ấy hoan hỷ và tùy hỷ lời Thế Tôn dạy.
Từ ngữ:
- tỳ kheo / bhikkhu / monk: Nhà sư, người nam xuất gia tu hành trong Phật giáo.
- chánh niệm / sati / mindfulness: Sự tỉnh giác, chú tâm, ghi nhận rõ ràng những gì đang xảy ra trong thân và tâm.
- lậu hoặc / āsava / taint: Những ô nhiễm, phiền não làm trói buộc chúng sinh trong vòng luân hồi, bao gồm dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.
- không chấp thủ / anupādā / not clinging: Trạng thái tâm không bám víu, dính mắc vào bất kỳ đối tượng nào, là yếu tố quan trọng để đạt được giải thoát.
- tri kiến giải thoát / vimuttiñāṇadassana / knowledge and vision of deliverance: Kiến thức và tầm nhìn về sự giải thoát, sự hiểu biết trực tiếp về trạng thái giải thoát khỏi khổ đau.
- thắng pháp / abhidhamma / higher Dhamma: Pháp cao siêu, phần triết học và tâm lý học sâu sắc trong Phật giáo, thường được trình bày dưới dạng phân tích chi tiết các hiện tượng tâm lý và vật lý.
- thiên nhãn / dibbacakkhu / divine eye: Khả năng thấy được những điều vượt xa tầm mắt của người thường, bao gồm cả việc thấy các cõi giới khác và các kiếp sống quá khứ, vị lai.