Skip to content

116. Isigili: Hang Nuốt Chư Tiên

(Kinh Isigili)

[68] 1. Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Thế Tôn trú tại thành Vương Xá (Rājagaha), ở núi Isigili - Hang Nuốt Chư Tiên. Tại đó, Ngài gọi các tỳ kheo (bhikkhus - các nhà sư nam đã thọ giới cụ túc): "Này các Tỳ kheo." - "Bạch Thế Tôn," các vị ấy vâng đáp. Đức Thế Tôn dạy điều này:

2. "Này các Tỳ kheo, các ông có thấy ngọn núi Vebhāra không?" - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

"Trước kia, ngọn núi Vebhāra ấy từng có một tên gọi khác, một danh xưng khác. Này các Tỳ kheo, các ông có thấy ngọn núi Paṇḍava không?" - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

"Trước kia, ngọn núi Paṇḍava ấy từng có một tên gọi khác, một danh xưng khác. Này các Tỳ kheo, các ông có thấy ngọn núi Vepulla không?" - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

"Trước kia, ngọn núi Vepulla ấy từng có một tên gọi khác, một danh xưng khác. Này các Tỳ kheo, các ông có thấy ngọn núi Gijjhakūṭa - đỉnh Linh Thứu không?" - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

"Trước kia, ngọn núi Gijjhakūṭa - đỉnh Linh Thứu ấy từng có một tên gọi khác, một danh xưng khác. Này các Tỳ kheo, các ông có thấy ngọn núi Isigili - Hang Nuốt Chư Tiên không?" - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

3. "Trước kia, ngọn núi Isigili - Hang Nuốt Chư Tiên này cũng từng có cùng tên gọi, cùng danh xưng này. Vì vào thời xa xưa, năm trăm vị Phật Độc Giác (paccekabuddha - vị Phật tự mình giác ngộ nhưng không thuyết giảng giáo pháp rộng rãi) đã sống lâu dài trên ngọn núi Isigili - Hang Nuốt Chư Tiên này. Người ta thấy các vị ấy đi vào trong núi này; một khi đã vào trong, không ai còn thấy các vị ấy nữa. Những người thấy vậy liền nói: 'Ngọn núi này nuốt chửng các vị tiên này.' Và thế là nó được đặt tên là 'Hang Nuốt Chư Tiên.' Này các Tỳ kheo, Ta sẽ cho các ông biết tên của các vị Phật Độc Giác, Ta sẽ kể cho các ông nghe tên của các vị Phật Độc Giác, Ta sẽ dạy cho các ông [69] tên của các vị Phật Độc Giác. Hãy lắng nghe và chú tâm kỹ những gì Ta sắp nói." - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn," các tỳ kheo vâng đáp. Đức Thế Tôn dạy điều này:

4. "Này các Tỳ kheo, vị Phật Độc Giác Aritṭha đã sống lâu dài trên núi Isigili này. Vị Phật Độc Giác Uparittha đã sống lâu dài trên núi Isigili này. Vị Phật Độc Giác Tagarasikhin... Yasassin... Sudassana... Piyadassin... Gandhāra... Piṇḍola... Upāsabha... Nītha... Tatha... Sutavā... Bhāvitatta đã sống lâu dài trên núi Isigili này.

5. "Những bậc thánh nhân này, không còn ham muốn, thoát khỏi khổ đau, Những vị tự mình đạt giác ngộ Hãy nghe Ta kể tên những bậc vĩ đại nhất Trong loài người, những vị đã nhổ bật mũi tên [khổ đau].

Aritṭha, Upariṭṭha, Tagarasikhin, Yasassin, Sudassana, và Piyadassin đã giác ngộ, Gandhāra, Piṇḍola, cùng Upāsabha, Nītha, Tatha, Sutavā, Bhāvitatta. [70]

6. "Sumbha, Subha, Methula, và Aṭṭhama, Rồi Assumegha, Anīgha, Sudāṭha - Và Hiṅgū, và Hiṅga, đại năng lực, Các vị Phật Độc Giác không còn tái sanh.

Hai vị hiền triết tên Jāli, và Aṭṭhaka, Rồi Kosala đã giác ngộ, rồi Subāhu, Upanemi, và Nemi, và Santacitta Chân chánh và chân thật, vô nhiễm và trí tuệ.

Kāla, Upakāla, Vijita, và Jita; Aṅga, và Paṅga, và Gutijjita nữa; Passin đã chiến thắng ái chấp (attachment - sự dính mắc, bám víu vào các đối tượng), cội rễ của khổ đau; Aparājita đã chiến thắng quyền lực của Ma vương.

Satthar, Pavattar, Sarabhaṅga, Lomahaṃsa, Uccaṅgamāya, Asita, Anāsava, Manomaya, và Bandhumant không còn kiêu mạn, Tadādhimutta không tỳ vết và rực rỡ;

Ketumbarāga, Mātanga, và Ariya, Rồi Accuta, Accutagāma, Byāmaka, Sumaṅgala, Dabbila, Supatiṭṭhita, Asayha, Khemābhirata, và Sorata,

Durannaya, Saṅgha, và rồi Ujjaya; Một vị hiền triết khác, Sayha, với nỗ lực cao thượng.

Và mười hai vị ở giữa - Ānanda, Nanda, và Upananda - Và Bhāradvāja mang thân cuối cùng; Rồi Bodhi, Mahānāma tối thượng, Bhāradvāja với bờm mào đẹp;

Tissa và Upatissa không còn bị ràng buộc vào sự hiện hữu; Upasīdarin, và Sīdarin, thoát khỏi ái dục (craving - sự khao khát, ham muốn mạnh mẽ).

Giác ngộ là Mangala, thoát khỏi dục vọng; Usabha đã cắt đứt lưới (phiền não), cội rễ của khổ đau.

Upanīta đạt đến trạng thái tịch tịnh, Thanh tịnh, tuyệt hảo, đúng với tên gọi.

Jeta, Jayanta, Paduma, và Uppala, Padumuttara, Rakkhita, và Pabbata, [71] Mānatthaddha vinh quang, Vītarāga Và Kaṇha đã giác ngộ với tâm giải thoát.

7. "Những vị này và các vị Phật Độc Giác vĩ đại, Hùng mạnh khác không còn tái sanh nữa - Hãy tôn kính những bậc hiền triết này, những người đã vượt qua ái dục, Đã đạt đến Niết Bàn cuối cùng (final Nibbāna/parinibbāna - trạng thái tịch diệt hoàn toàn sau khi thân xác tan rã, không còn tái sanh), không thể đo lường."

Từ ngữ:

  • Tỳ kheo / bhikkhu / monk: Nhà sư nam đã thọ giới cụ túc (giới luật cao nhất) trong Phật giáo Theravada.
  • Phật Độc Giác / paccekabuddha / silent buddha: Vị Phật tự mình giác ngộ chân lý nhưng không thuyết giảng giáo pháp một cách hệ thống cho chúng sinh như Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Các vị này thường xuất hiện trong thời kỳ không có Phật Chánh Đẳng Chánh Giác tại thế.
  • Ái chấp / upādāna / attachment, clinging: Sự dính mắc, bám víu mạnh mẽ vào các đối tượng (như ngũ uẩn, dục lạc, tà kiến, giới cấm thủ), xem chúng là "tôi" hay "của tôi". Đây là một trong những mắt xích quan trọng trong chuỗi Thập Nhị Nhân Duyên, dẫn đến khổ đau và tái sanh.
  • Ái dục / taṇhā / craving: Sự khao khát, ham muốn mãnh liệt. Bao gồm ba loại: dục ái (khao khát các đối tượng giác quan), hữu ái (khao khát sự tồn tại, được trở thành), và phi hữu ái (khao khát sự không tồn tại, sự hủy diệt). Đây là nguyên nhân trực tiếp của khổ đau theo Bốn Sự Thật Cao Quý.
  • Niết Bàn cuối cùng / parinibbāna / final Nibbāna (complete nirvana): Trạng thái tịch diệt hoàn toàn, chấm dứt mọi khổ đau và vòng luân hồi (samsara). Trạng thái này xảy ra khi một vị Phật hoặc A-la-hán qua đời, khi ngũ uẩn (năm nhóm yếu tố tạo thành con người) hoàn toàn tan rã và không còn tái sanh nữa. Khác với Niết Bàn đạt được khi còn sống (hữu dư y Niết Bàn).
  • Đức Thế Tôn / Bhagavā / Blessed One: Một trong những danh hiệu tôn kính nhất dành cho Đức Phật, có nghĩa là bậc được tôn quý, bậc có đầy đủ phước đức và trí tuệ, bậc đã chiến thắng mọi phiền não và khổ đau.
  • Ma vương / Māra / Mara: Trong Phật giáo, Māra không chỉ là một vị vua của cõi trời dục giới mà còn là biểu tượng cho các thế lực tiêu cực cản trở sự tu tập và giác ngộ, bao gồm: phiền não (kilesa-māra), cái chết (maccu-māra), ngũ uẩn (khandha-māra), và các cám dỗ từ bên ngoài (devaputta-māra).
  • Hang Nuốt Chư Tiên / Isigili / Gullet of the Seers: Tên một ngọn núi ở gần thành Vương Xá (Rājagaha), nơi các vị Phật Độc Giác từng cư ngụ. Tên gọi này xuất phát từ việc người ta thấy các vị đi vào núi nhưng không thấy trở ra.
  • Núi Linh Thứu / Gijjhakūṭa / Vulture Peak: Một ngọn núi nổi tiếng gần Vương Xá, có hình dạng giống con kền kền (linh thứu). Đây là nơi Đức Phật thường xuyên thuyết pháp nhiều bài kinh quan trọng.