Skip to content

3. Kinh Ambaṭṭha

Ambaṭṭhasutta

[Như vầy tôi nghe.292] Một thời Đức Phật đang du hành ở xứ Kosala cùng với một Tăng đoàn (Saṅgha / đoàn thể của các vị xuất gia) lớn gồm năm trăm vị tỳ khưu. Ngài đến một ngôi làng của các vị Bà-la-môn (brahmins / giai cấp tu sĩ và học giả trong xã hội Ấn Độ cổ) xứ Kosala tên là Icchānaṅgala.293 Ngài trú tại một khu rừng gần Icchānaṅgala.

1. Pokkharasāti

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Pokkharasāti đang sống ở Ukkaṭṭhā. Đó là một lộc ấp của vua ban (crown property / đất đai vua ban cho) do vua Pasenadi xứ Kosala ban tặng, trù phú, đông đúc chúng sanh, đầy đủ cỏ, gỗ, nước và ngũ cốc, một ân tứ của nhà vua, một khu vườn được ban cho một vị Bà-la-môn.294 Pokkharasāti nghe được rằng:

"Dường như Sa-môn Gotama (ascetic Gotama / nhà tu khổ hạnh Gotama)---một người dòng Thích Ca (Sakyan / người thuộc dòng tộc Thích Ca, dòng tộc của Đức Phật), xuất gia từ gia tộc Thích Ca---đã đến Icchānaṅgala và đang trú tại một khu rừng gần đó. Ngài có tiếng lành đồn xa (good reputation / danh tiếng tốt đẹp được lan truyền) như sau: 'Thế Tôn (Blessed One / Bhagavā, bậc được tôn kính trên đời, người có đầy đủ phước đức và trí tuệ) ấy là bậc A-la-hán (perfected / bậc đã giác ngộ hoàn toàn, diệt tận phiền não, xứng đáng được cúng dường), Chánh Đẳng Chánh Giác (fully awakened Buddha / bậc tự mình giác ngộ chân lý một cách viên mãn và đúng đắn), Minh Hạnh Túc (accomplished in knowledge and conduct / người đầy đủ trí tuệ (minh) và đức hạnh (hạnh)), Thiện Thệ (holy / Sugata, bậc đã đi qua một cách tốt đẹp đến Niết-bàn, không còn trở lại vòng luân hồi), Thế Gian Giải (knower of the world / người hiểu biết rõ thế gian và con đường thoát khỏi thế gian), Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu (supreme guide for those who wish to train / bậc tối cao có khả năng giáo hóa chúng sanh, như người nài ngựa giỏi điều phục ngựa chứng), Thiên Nhân Sư (teacher of gods and humans / thầy của trời và người), Phật (awakened / Buddha, bậc đã giác ngộ), Thế Tôn.' Ngài đã tự mình chứng ngộ (realized with his own insight / tự mình hiểu rõ và đạt được bằng trí tuệ) thế giới này---cùng với các vị trời, Ma vương (Māras / các thế lực cản trở sự giác ngộ), và Phạm thiên (divinities / các vị trời ở cõi sắc giới và vô sắc giới), quần chúng này cùng với các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người---và Ngài tuyên thuyết cho người khác biết.295 Ngài thuyết một giáo pháp toàn hảo ở phần đầu, toàn hảo ở phần giữa, toàn hảo ở phần cuối (good in the beginning, good in the middle, and good in the end / hoàn thiện từ đầu đến cuối), có ý nghĩa, có văn từ. Và Ngài khai thị một phạm hạnh (spiritual practice / đời sống tu tập thanh tịnh) hoàn toàn viên mãn, trong sạch. Lành thay, được thấy các bậc A-la-hán như vậy."296

2. Đệ tử Ambaṭṭha

Lúc bấy giờ, Pokkharasāti có một học trò tên là Ambaṭṭha, là đệ tử nội trú (resident pupil / học trò ở cùng thầy). Anh ta là người đọc tụng và ghi nhớ các thánh điển, và đã thông thạo Tam Vệ-đà (three Vedas / ba bộ kinh Vệ-đà cổ của Bà-la-môn giáo), cùng với từ vựng và nghi lễ, âm vị học và từ loại học, và các tập truyện cổ (Itihāsa) là phần thứ năm. Anh ta thuộc lòng từng chữ và thông thạo ngữ pháp của chúng. Anh ta thông suốt về vũ trụ luận và các tướng của bậc đại nhân (marks of a great man / những đặc điểm phi thường của một người vĩ đại). Anh ta đã được thầy công nhận là bậc thầy về di sản kinh điển Tam Vệ-đà của thầy mình với những lời: "297 Những gì ta biết, con đều biết.298 Và những gì con biết, ta đều biết."

Bấy giờ Pokkharasāti nói với Ambaṭṭha: "Này Ambaṭṭha thân mến, Sa-môn Gotama---một người dòng Thích Ca, xuất gia từ gia tộc Thích Ca---đã đến Icchānaṅgala và đang trú tại một khu rừng gần đó. Ngài có tiếng lành đồn xa như vậy... Lành thay, được thấy các bậc A-la-hán như vậy. Này Ambaṭṭha thân mến, xin con hãy đến gặp Sa-môn Gotama và tìm hiểu xem ngài ấy có đúng với danh tiếng của mình hay không. Qua con, ta sẽ biết về Tôn giả Gotama."299

"Thưa ngài, làm thế nào con có thể tìm hiểu xem Sa-môn Gotama có đúng với danh tiếng của ngài ấy hay không?"

"Này Ambaṭṭha thân mến, ba mươi hai tướng của bậc đại nhân đã được truyền lại trong các thánh điển của chúng ta. Một bậc đại nhân sở hữu những tướng này chỉ có hai cảnh giới (possible destinies / con đường tương lai) khả dĩ, không có con đường nào khác.300 Nếu ở đời tại gia, vị ấy sẽ trở thành một vị vua, một vua Chuyển Luân Thánh Vương (wheel-turning monarch / vị vua cai trị bằng chánh pháp, bánh xe pháp của ngài lăn đến đâu thì nơi đó được an bình), một vị vua công bằng và đức độ. Quyền lực của vị ấy bao trùm bốn phương, vị ấy đạt được sự ổn định trong nước, và sở hữu thất bảo (seven treasures / bảy báu vật của Chuyển Luân Thánh Vương).301 Vị ấy có bảy báu vật sau: bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, gia chủ báu, và vị tướng quân báu là thứ bảy. Vị ấy có hơn một ngàn người con trai dũng mãnh, anh hùng, có khả năng đè bẹp quân đội của kẻ thù.302 Sau khi chinh phục vùng đất bao quanh bởi biển cả này, vị ấy cai trị bằng chánh pháp, không cần đến roi vọt hay gươm đao. Nhưng nếu vị ấy từ bỏ đời sống thế tục, xuất gia sống không nhà cửa, vị ấy sẽ trở thành một bậc A-la-hán, một vị Chánh Đẳng Chánh Giác, người vén lên bức màn che của thế gian. Nhưng, này Ambaṭṭha thân mến, ta là người truyền dạy thánh điển,303 còn con là người lãnh thọ."

"Vâng, thưa ngài," Ambaṭṭha đáp. Anh ta đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cúi đầu và đi nhiễu quanh Pokkharasāti theo chiều bên phải (respectfully circled, keeping him to his right / đi vòng quanh một cách tôn kính, giữ đối tượng ở bên phải mình). Anh ta lên một cỗ xe do ngựa cái kéo và cùng với vài thanh niên học trò, lên đường đến khu rừng gần Icchānaṅgala.304 Anh ta đi xe ngựa đến hết đoạn đường có thể đi, rồi xuống xe và đi bộ vào tịnh xá (monastery / nơi ở của các vị tu sĩ Phật giáo).

Lúc bấy giờ, một vài vị tỳ khưu đang kinh hành (walking mindfully / đi một cách chậm rãi và có ý thức) ở ngoài trời.305 Bấy giờ, học trò Ambaṭṭha đến gần các vị tỳ khưu ấy và nói: "Thưa các ngài, Tôn giả Gotama hiện đang ở đâu?306 Vì chúng tôi đến đây để gặp ngài."307

Các vị tỳ khưu ấy bèn nghĩ: "Ambaṭṭha này xuất thân từ một gia đình danh tiếng, và là học trò của Bà-la-môn Pokkharasāti nổi tiếng. Đức Phật sẽ không phiền khi thảo luận cùng với những người lịch sự như vậy."308

Họ nói với Ambaṭṭha: "Này Ambaṭṭha, kia là cốc (dwelling / nơi ở nhỏ của tu sĩ) của Ngài, cửa đang đóng. Hãy đến đó nhẹ nhàng, đừng vội vã; đi lên hiên nhà, hắng giọng và gõ vào cánh cửa. Đức Phật sẽ mở cửa."309

Vậy là anh ta đến gần cốc của Đức Phật, hắng giọng và gõ vào cánh cửa, và Đức Phật đã mở cửa. Ambaṭṭha và các thanh niên học trò bước vào cốc. Các thanh niên học trò chào hỏi Đức Phật, và sau khi chào hỏi và chuyện trò thân mật xong, họ ngồi xuống một bên. Nhưng trong khi Đức Phật đang ngồi, Ambaṭṭha lại vừa đi tới đi lui hoặc đứng mà nói vài lời xã giao này khác.

Đức Phật bèn nói với anh ta: "Này Ambaṭṭha, có phải đây là cách ngươi thảo luận với các vị Bà-la-môn lớn tuổi ? bậc thầy của các thầy, vừa đi tới đi lui hoặc đứng và nói vài lời xã giao này khác trong khi ta đang ngồi ?"310

2.1. Lần đầu dùng từ "Hạ tiện"

"Không, Tôn giả Gotama. Vì một người Bà-la-môn nói chuyện với một người Bà-la-môn khác thì dù cả hai đang đi, đứng, ngồi hay nằm đều là hợp lẽ. Nhưng đối với những kẻ đầu trọc (shavelings / những người cạo đầu, ý miệt thị), Sa-môn giả hiệu (fake ascetics / những người tu hành không chân chính), hạ tiện (primitives / những kẻ thấp kém, mọi rợ), con cháu đen đúa sinh từ chân của bà con chúng ta (black spawn from the feet of our kinsman / ám chỉ dòng dõi thấp kém theo thần thoại Bà-la-môn, nơi giai cấp Thủ-đà-la được cho là sinh ra từ chân của Phạm Thiên, tổ tiên của Bà-la-môn), tôi nói chuyện với họ cũng như tôi nói chuyện với Tôn giả Gotama vậy."311

"Nhưng này Ambaṭṭha, ngươi đến đây hẳn là có mục đích. Ngươi nên tập trung vào điều đó. Ambaṭṭha này tuy không đủ tư cách, lại tự cho mình là đủ tư cách. Đó chẳng phải là thiếu tư cách thì là gì?"312

Khi Ngài nói vậy, Ambaṭṭha trở nên tức giận và khó chịu với Đức Phật vì bị nói là không đủ tư cách. Anh ta thậm chí còn công kích và nói xấu chính Đức Phật, rằng: "Sa-môn Gotama sẽ thua cuộc!" Anh ta nói với Đức Phật: "Gotama, dòng họ Thích Ca thật thô lỗ, hung hăng, dễ nổi nóng và hay tranh cãi.313 Họ là những kẻ hạ tiện, và mãi mãi là những kẻ hạ tiện! Họ không tôn kính, quý trọng, sùng kính, cúng dường hay tôn thờ các vị Bà-la-môn.314 Việc dòng họ Thích Ca---những kẻ hạ tiện---không tôn kính, quý trọng, sùng kính, cúng dường hay tôn thờ các vị Bà-la-môn là không đúng đắn, không thích hợp."

Và đó là lần đầu tiên Ambaṭṭha miệt thị dòng họ Thích Ca bằng từ "hạ tiện".

2.2. Lần thứ hai dùng từ "Hạ tiện"

"Nhưng này Ambaṭṭha, dòng họ Thích Ca đã làm gì sai với ngươi?"

"Có một lần, Tôn giả Gotama, tôi đến Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu / kinh đô của dòng họ Thích Ca) để lo một vài công việc cho thầy tôi, Bà-la-môn Pokkharasāti. Tôi đến gặp những người Thích Ca tại nghị trường (town hall / nơi hội họp công cộng) của họ. Lúc đó, một vài người Thích Ca và các vương tử Thích Ca đang ngồi trên ghế cao, chọc lét nhau bằng ngón tay, cười khúc khích và nô đùa với nhau. Thực tế, họ thậm chí còn dám cười nhạo tôi, và không mời tôi ngồi. Việc dòng họ Thích Ca---những kẻ hạ tiện---không tôn kính, quý trọng, sùng kính, cúng dường hay tôn thờ các vị Bà-la-môn là không đúng đắn, không thích hợp."

Và đó là lần thứ hai Ambaṭṭha miệt thị dòng họ Thích Ca bằng từ "hạ tiện".

2.3. Lần thứ ba dùng từ "Hạ tiện"

"Ngay cả một con chim cút nhỏ, này Ambaṭṭha, cũng nói năng tùy thích trong tổ của nó. Ca-tỳ-la-vệ là đất của dòng họ Thích Ca, này Ambaṭṭha. Tôn giả Ambaṭṭha không đáng phải nổi nóng vì một chuyện nhỏ nhặt như vậy."315

"Này Gotama, có bốn giai cấp: Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, và Thủ-đà-la (four classes: aristocrats, brahmins, peasants, and menials / bốn giai cấp chính trong xã hội Ấn Độ cổ: chiến sĩ quý tộc, tu sĩ học giả, thường dân, và tiện dân). Ba trong số các giai cấp này---Sát-đế-lỵ, Phệ-xá, và Thủ-đà-la---thực ra chỉ thành công khi phục vụ cho giai cấp Bà-la-môn. Việc dòng họ Thích Ca---những kẻ hạ tiện---không tôn kính, quý trọng, sùng kính, cúng dường hay tôn thờ các vị Bà-la-môn là không đúng đắn, không thích hợp."

Và đó là lần thứ ba Ambaṭṭha miệt thị dòng họ Thích Ca bằng từ "hạ tiện".

2.4. Từ "Con trai của nữ tỳ" được sử dụng

Bấy giờ Đức Phật khởi ý nghĩ: "Ambaṭṭha này hạ thấp dòng họ Thích Ca quá nhiều khi gọi họ là những kẻ hạ tiện. Sao ta không hỏi anh ta về gia tộc (clan / dòng họ) của chính mình?"

Đức Phật bèn nói với anh ta: "Này Ambaṭṭha, gia tộc của ngươi là gì?"316

"Tôi thuộc dòng Kaṇhāyana, Gotama."317

"Nhưng, nhớ lại tên và gia tộc xưa của cha mẹ ngươi, dòng họ Thích Ca là con cháu của những người chủ, trong khi ngươi là hậu duệ của con trai một nữ tỳ của dòng họ Thích Ca.318 Nhưng dòng họ Thích Ca coi vua Okkāka là ông tổ của họ.319

Ngày xưa, vua Okkāka, muốn chuyển quyền kế vị ngai vàng cho con trai của vị hoàng hậu được yêu quý nhất, đã trục xuất các vị hoàng tử lớn tuổi khỏi vương quốc---Okkāmukha, Karakaṇḍa, Hatthinika, và Sinisūra. Họ đến sống bên một ao sen trên sườn núi Hy Mã Lạp Sơn, nơi có một khu rừng cây sakhua (sala) lớn.320 Vì sợ làm ô uế dòng dõi, họ đã kết hôn với chính chị em ruột (saka) của mình.321

Bấy giờ vua Okkāka hỏi các vị đại thần và cố vấn: 'Thưa các khanh, các hoàng tử hiện đang ở đâu?'322

'Tâu Đại vương, có một ao sen trên sườn núi Hy Mã Lạp Sơn, bên một khu rừng cây sakhua lớn. Họ đã định cư ở đó. Vì sợ làm ô uế dòng dõi, họ đang kết hôn với chính chị em ruột của mình.'

Khi ấy, này Ambaṭṭha, vua Okkāka đã thốt lên lời cảm thán tự đáy lòng (heartfelt sentiment / lời nói chân thành xuất phát từ trái tim): 'Các hoàng tử quả thật là những người Thích Ca (Sakyans)! Các hoàng tử quả thật là những người Thích Ca ưu tú nhất!'323 Từ ngày đó, dòng họ Thích Ca được công nhận và vua Okkāka là thủy tổ của họ.

Vua Okkāka có một nữ tỳ (slavegirl / người hầu gái, nô lệ nữ) tên là Disā.324 Bà sinh ra một cậu bé tên là 'Kaṇha' (Đen).325 Khi mới sinh, cậu bé Kaṇha nói: 'Mẹ ơi, rửa cho con, tắm cho con! Hãy tẩy sạch vết nhơ này khỏi người con! Con sẽ có ích cho mẹ!'326 Trong khi ngày nay người ta thấy yêu tinh (goblins / loài ma quỷ nhỏ) thì nhận ra đó là yêu tinh, thì thời đó người ta gọi yêu tinh là 'Kaṇha' (những đứa trẻ đen).

Họ nói: 'Nó vừa sinh ra đã biết nói---một đứa trẻ đen đã ra đời! Một yêu tinh đã ra đời!' Từ ngày đó, dòng họ Kaṇhāyana được hình thành, và cậu bé ấy là thủy tổ của họ. Đó là cách mà, khi nhớ lại tên và gia tộc xưa của cha mẹ ngươi, dòng họ Thích Ca là con cháu của những người chủ, trong khi ngươi là hậu duệ của con trai một nữ tỳ của dòng họ Thích Ca."

Khi Ngài nói vậy, các thanh niên học trò kia nói với Ngài: "Thưa Tôn giả Gotama, xin đừng hạ thấp Ambaṭṭha quá nhiều khi gọi anh ta là con trai của nữ tỳ.327 Anh ta xuất thân cao quý, là người lịch thiệp, có học thức, phát âm chuẩn, và sắc sảo. Anh ta có khả năng tranh luận với Tôn giả Gotama về vấn đề này."

Đức Phật bèn nói với họ: "Này các thanh niên học trò, nếu các ngươi nghĩ rằng Ambaṭṭha xuất thân thấp hèn, không phải người lịch thiệp, vô học, ăn nói vụng về, ngu dốt, và không có khả năng tranh luận với ta về vấn đề này, thì hãy để anh ta qua một bên và các ngươi có thể tranh luận với ta. Nhưng nếu các ngươi nghĩ rằng anh ta xuất thân cao quý, là người lịch thiệp, có học thức, phát âm chuẩn, sắc sảo, và có khả năng tranh luận với ta về vấn đề này, thì các ngươi nên đứng sang một bên và để anh ta tranh luận với ta."

"Anh ấy có khả năng tranh luận với ngài. Chúng tôi sẽ im lặng, và để Ambaṭṭha tranh luận với Tôn giả Gotama về vấn đề này."

Đức Phật bèn nói với Ambaṭṭha: "Này Ambaṭṭha, có một câu hỏi hợp lý được đặt ra. Ngươi sẽ không thích, nhưng ngươi vẫn phải trả lời. Nếu ngươi không trả lời---bằng cách lảng tránh vấn đề, giữ im lặng, hoặc bỏ đi---đầu ngươi sẽ vỡ tan thành bảy mảnh ngay tại đây.328 Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Theo những gì ngươi đã nghe từ các vị Bà-la-môn lớn tuổi, bậc thầy của các thầy, nguồn gốc của dòng họ Kaṇhāyana là gì, và ai là thủy tổ của họ?"

Khi Ngài nói vậy, Ambaṭṭha giữ im lặng.

Lần thứ hai, Đức Phật đặt câu hỏi, và lần thứ hai Ambaṭṭha giữ im lặng.

Đức Phật bèn nói với anh ta: "Hãy trả lời ngay, Ambaṭṭha. Bây giờ không phải là lúc để im lặng. Nếu ai đó không trả lời một câu hỏi hợp lý khi được Đức Phật hỏi đến lần thứ ba, đầu của họ sẽ vỡ tan thành bảy mảnh ngay tại đó."

Lúc bấy giờ, Dạ-xoa Kim Cang Thủ (Vajirapāṇī / vị thần cầm chày kim cương, một vị hộ pháp), tay cầm một cây chùy sắt khổng lồ, rực lửa, chói sáng và nóng bỏng, đứng trên không trung phía trên Ambaṭṭha, nghĩ rằng,329 "Nếu Ambaṭṭha này không trả lời khi được hỏi đến lần thứ ba, ta sẽ đánh vỡ đầu hắn thành bảy mảnh ngay tại đó!" Cả Đức Phật và Ambaṭṭha đều có thể nhìn thấy Dạ-xoa Kim Cang Thủ.

Ambaṭṭha kinh hãi, choáng váng và khiếp sợ. Tìm đến Đức Phật để xin nơi ẩn náu, sự bảo vệ và nơi nương tựa, anh ta ngồi xuống gần Đức Phật và nói: "Ngài nói gì vậy? Xin hãy lặp lại câu hỏi."

"Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Theo những gì ngươi đã nghe từ các vị Bà-la-môn lớn tuổi, bậc thầy của các thầy, nguồn gốc của dòng họ Kaṇhāyana là gì, và ai là thủy tổ của họ?"

"Tôi đã nghe, thưa Tôn giả Gotama, rằng sự việc đúng như ngài nói. Đó là nguồn gốc của dòng họ Kaṇhāyana, và đó là thủy tổ của họ."

2.5. Thảo luận về dòng dõi của Ambaṭṭha

Khi anh ta nói vậy, các thanh niên học trò kia làm ầm lên: "Hóa ra Ambaṭṭha xuất thân thấp hèn, không phải người lịch thiệp, là con trai của một nữ tỳ dòng Thích Ca, và dòng họ Thích Ca là con cháu của chủ nhân của anh ta! Và dường như Sa-môn Gotama chỉ nói sự thật, dù chúng ta đã dám trách mắng ngài!"

Bấy giờ Đức Phật khởi ý nghĩ: "Những thanh niên học trò này hạ thấp Ambaṭṭha khi gọi anh ta là con trai của nữ tỳ. Sao ta không giúp anh ta thoát khỏi tình thế này?"

Đức Phật bèn nói với các thanh niên học trò: "Này các thanh niên học trò, đừng hạ thấp Ambaṭṭha khi gọi anh ta là con trai của nữ tỳ. Cậu bé Kaṇha (Đen) đó là một vị tiên nhân lỗi lạc (eminent sage / nhà hiền triết nổi tiếng, có năng lực siêu phàm).330 Cậu ấy đã đến một xứ ở phương nam và học thuộc lòng Thần chú. Sau đó, cậu ấy đến gặp vua Okkāka và xin cưới công chúa Maddarūpī, con gái của vua.331

Vua nói với cậu: 'Thằng con của nữ tỳ này là cái thá gì mà dám hỏi cưới con gái ta!' Tức giận và khó chịu, vua lắp một mũi tên sắc bén vào cung.332 Nhưng vua không thể bắn mũi tên đi mà cũng không thể hạ cung xuống.

Bấy giờ các vị đại thần và cố vấn đến gặp tiên nhân Kaṇha và nói: 'Xin tiên nhân tha cho nhà vua, xin tha cho ngài!'

'Nhà vua sẽ được an toàn. Nhưng nếu vua bắn mũi tên xuống đất, sẽ có động đất trên toàn vương quốc.'333

'Xin tiên nhân tha cho nhà vua và tha cho đất nước!'

'Cả vua và đất nước sẽ được an toàn. Nhưng nếu vua bắn mũi tên lên trời, sẽ không có mưa trên toàn vương quốc trong bảy năm.'

'Xin tiên nhân tha cho nhà vua, tha cho đất nước, và xin hãy cho mưa xuống!'334

'Cả vua và đất nước sẽ được an toàn, và mưa sẽ rơi. Và nếu nhà vua bắn mũi tên vào thái tử, thái tử sẽ được an toàn và bình an vô sự.'335

Các vị đại thần bèn nói với vua Okkāka:336 'Vua Okkāka phải bắn mũi tên vào thái tử. Thái tử sẽ được an toàn và bình an vô sự.'

Vua Okkāka bèn bắn mũi tên vào thái tử. Và thái tử đã được an toàn và bình an vô sự. Bấy giờ nhà vua kinh hãi, choáng váng và khiếp sợ. Sợ hãi trước sự trừng phạt của thần linh, vua đã gả công chúa Maddarūpī cho cậu.337

Này các thanh niên học trò, xin đừng hạ thấp Ambaṭṭha quá nhiều khi gọi anh ta là con trai của nữ tỳ. Cậu bé Kaṇha đó là một vị tiên nhân lỗi lạc."

3. Sự vượt trội của giai cấp Sát-đế-lỵ

Bấy giờ Đức Phật nói với Ambaṭṭha: "Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Giả sử một chàng trai Sát-đế-lỵ ăn nằm với một cô gái Bà-la-môn, và họ có một người con trai. Người con đó có được các vị Bà-la-môn mời ngồi và dâng nước không?"

"Thưa Tôn giả Gotama, có ạ."

"Và các vị Bà-la-môn có cho người đó ăn trong lễ cúng tế tổ tiên (offering of food for ancestors / lễ cúng dường thức ăn cho người đã khuất), lễ cúng dường cháo sữa (offering of a dish of milk-rice / lễ cúng món cháo nấu bằng sữa), lễ tế lễ (sacrifice / nghi lễ cúng thần linh, thường có sát sinh), hay trong tiệc đãi khách không?"

"Thưa có."

"Và các vị Bà-la-môn có dạy thánh điển cho người đó hay không?"

"Thưa có."

"Và người ấy có bị cấm tiếp xúc với phụ nữ (của giai cấp Bà-la-môn) hay không?"338

"Thưa không."

"Và giai cấp Sát-đế-lỵ có làm lễ tấn phong làm vua (anoint him as king / thực hiện nghi lễ xức dầu để công nhận là vua) cho người đó không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama. Tại sao vậy? Bởi vì dòng dõi bên mẹ không tương xứng."

"Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Giả sử một chàng trai Bà-la-môn ăn nằm với một cô gái Sát-đế-lỵ, và họ có một người con trai. Người con đó có được các vị Bà-la-môn mời ngồi và dâng nước không?"

"Thưa Tôn giả Gotama, có ạ."

"Và các vị Bà-la-môn có cho người đó ăn trong lễ cúng tế tổ tiên, lễ cúng dường cháo sữa, lễ tế lễ, hay trong tiệc đãi khách không?"

"Thưa có."

"Và các vị Bà-la-môn có dạy thánh điển cho người đó hay không?"

"Thưa có."

"Và người ấy có bị cấm tiếp xúc với phụ nữ (của giai cấp Bà-la-môn) hay không?"

"Thưa không."

"Và giai cấp Sát-đế-lỵ có làm lễ tấn phong làm vua cho người đó không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama. Tại sao vậy? Bởi vì dòng dõi bên cha không tương xứng."

"Như vậy, Ambaṭṭha, giai cấp Sát-đế-lỵ là cao hơn và giai cấp Bà-la-môn là thấp hơn, dù so sánh nữ với nữ hay nam với nam. Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Giả sử các vị Bà-la-môn vì lý do nào đó mà cạo đầu một người Bà-la-môn, bắt mang một bao tro, và trục xuất người đó khỏi xứ sở hay thành phố. Người đó có được các vị Bà-la-môn mời ngồi và dâng nước không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Và các vị Bà-la-môn có cho người đó ăn trong lễ cúng tế tổ tiên, lễ cúng dường cháo sữa, lễ tế lễ, hay trong tiệc đãi khách không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Và các vị Bà-la-môn có dạy thánh điển cho người đó hay không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Và người ấy có bị cấm tiếp xúc với phụ nữ (của giai cấp Bà-la-môn) hay không?"

"Thưa có."

"Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Giả sử giai cấp Sát-đế-lỵ vì lý do nào đó mà cạo đầu một người Sát-đế-lỵ, bắt mang một bao tro, và trục xuất người đó khỏi xứ sở hay thành phố. Người đó có được các vị Bà-la-môn mời ngồi và dâng nước không?"

"Thưa Tôn giả Gotama, có ạ."

"Và các vị Bà-la-môn có cho người đó ăn trong lễ cúng tế tổ tiên, lễ cúng dường cháo sữa, lễ tế lễ, hay trong tiệc đãi khách không?"

"Thưa có."

"Và các vị Bà-la-môn có dạy thánh điển cho người đó hay không?"

"Thưa có."

"Và người ấy có bị cấm tiếp xúc với phụ nữ (của giai cấp Bà-la-môn) hay không?"

"Thưa không."

"Đến mức này, Ambaṭṭha, người Sát-đế-lỵ đó đã rơi xuống tận cùng, đầu bị cạo, phải mang bao tro, và bị trục xuất khỏi thành phố hay xứ sở. Tuy nhiên, giai cấp Sát-đế-lỵ vẫn cao hơn và giai cấp Bà-la-môn vẫn thấp hơn. Phạm thiên Sanaṅkumāra (divinity Sanaṅkumāra / vị trời Phạm thiên tên Sanaṅkumāra) cũng đã nói bài kệ này:339

'Sát-đế-lỵ là ưu việt nhất trong những người
lấy dòng dõi làm tiêu chuẩn.
Nhưng người thành tựu về trí tuệ và đức hạnh
là bậc nhất trong trời và người.'

Bài kệ đó được Phạm thiên Sanaṅkumāra khéo nói, không phải vụng nói; khéo thuyết, không phải vụng thuyết, có lợi ích, không có hại, và đã được Ta chấp thuận. Vì Ta cũng nói như vầy:

Sát-đế-lỵ là ưu việt nhất trong những người
lấy dòng dõi làm tiêu chuẩn.
Nhưng người thành tựu về trí tuệ và đức hạnh
là bậc nhất trong trời và người."

Phần tụng đọc thứ nhất.

4. Trí tuệ và Đức hạnh

"Nhưng thưa Tôn giả Gotama, hạnh (conduct / cách hành xử, đức hạnh) đó là gì, và minh (knowledge / trí tuệ, sự hiểu biết sáng suốt) đó là gì?"340

"Này Ambaṭṭha, trong minh và hạnh tối thượng (supreme knowledge and conduct / trí tuệ và đức hạnh cao nhất) không có sự bàn luận về dòng dõi, gia tộc hay sự kiêu hãnh---341 'Ngươi xứng với ta' hay 'Ngươi không xứng với ta.' Bất cứ nơi nào có việc cưới gả thì đều có sự bàn luận như vậy. Bất cứ ai chấp trước vào những vấn đề về dòng dõi, gia tộc hay sự kiêu hãnh, hoặc vào việc cưới gả, thì đều xa rời minh và hạnh tối thượng. Sự chứng ngộ minh và hạnh tối thượng xảy ra khi ngươi đã từ bỏ những điều đó."342

"Nhưng thưa Tôn giả Gotama, hạnh đó là gì, và minh đó là gì?"

"Này Ambaṭṭha, đó là khi một bậc Như Lai (Realized One / Tathāgata, bậc đã đến và đi như vậy, một danh hiệu của Phật) xuất hiện trên đời, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài tự mình chứng ngộ thế giới này---cùng với các vị trời, Ma vương, và Phạm thiên, quần chúng này cùng với các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người---và Ngài tuyên thuyết cho người khác biết. Ngài thuyết một giáo pháp toàn hảo ở phần đầu, toàn hảo ở phần giữa, toàn hảo ở phần cuối, có ý nghĩa, có văn từ. Và Ngài khai thị một phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, trong sạch. Một vị cư sĩ (householder / người tại gia tu tập theo Phật pháp) nghe giáo pháp đó, hoặc con cái của một vị cư sĩ, hoặc người nào đó tái sinh trong một gia đình tốt. Họ phát sinh niềm tin nơi bậc Như Lai và suy ngẫm ...343

Hoàn toàn ly dục (secluded from sensual pleasures / xa lìa các ham muốn của giác quan), ly bất thiện pháp (secluded from unskillful qualities / xa lìa các trạng thái tâm tiêu cực, bất lợi), họ nhập và trú trong sơ thiền (first absorption / tầng thiền thứ nhất, trạng thái tâm định tĩnh kèm theo tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm) ... Đây thuộc về hạnh của vị ấy.

Hơn nữa, khi có tầm có tứ (placing the mind and keeping it connected / chủ động hướng ý nghĩ đến đối tượng và giữ sự quan sát đối tượng đó) được lắng dịu, một vị tỳ khưu nhập và trú trong nhị thiền (second absorption / tầng thiền thứ hai, không còn tầm và tứ, chỉ có hỷ, lạc, nhất tâm) ... Đây thuộc về hạnh của vị ấy.

Hơn nữa, với sự phai nhạt của niềm vui, họ nhập và trú trong tam thiền (third absorption / tầng thiền thứ ba, không còn hỷ, chỉ có lạc, xả, niệm, định) ... Đây thuộc về hạnh của vị ấy.

Hơn nữa, xả an ổn và khổ, và diệt trừ hỷ và ưu đã có từ trước, họ nhập và trú trong tứ thiền (fourth absorption / tầng thiền thứ tư, chỉ còn xả và niệm thanh tịnh, định vững chắc) ... Đây thuộc về hạnh của vị ấy. Đây chính là hạnh đó.

Khi tâm của vị ấy đã nhập vào định (concentration / samādhi / sự tập trung tâm ý vào một đối tượng, sự định tĩnh) như vậy---thanh tịnh, trong sáng, không tỳ vết, thoát khỏi các phiền não phụ, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc và không lay động---vị ấy hướng tâm và suy nghĩ về trí tuệ và sự thấy biết. Đây thuộc về minh của vị ấy. ... Vị ấy hiểu rõ: 'Không còn gì phải làm thêm ở đây nữa.' Đây thuộc về minh của vị ấy. Đây chính là minh đó.

Vị tỳ khưu này được gọi là 'người thành tựu về minh', và cũng là 'người thành tựu về hạnh', và cũng là 'người thành tựu về minh và hạnh'. Và, này Ambaṭṭha, không có sự thành tựu nào về minh và hạnh cao hơn hay tốt đẹp hơn điều này.

5. Bốn Nguyên Nhân Từ Bỏ

Có bốn nguyên nhân này khiến người ta từ bỏ minh và hạnh tối thượng này.344 Bốn nguyên nhân nào? Thứ nhất, hãy xem một Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó, không đạt được minh và hạnh tối thượng này, đã đi vào vùng hoang dã mang theo đồ đạc bằng đòn gánh, nghĩ rằng mình sẽ sống bằng cách lượm trái cây rụng.345 Thực ra, họ chỉ trở thành người phục vụ cho một người đã thành tựu minh và hạnh.346 Đây là nguyên nhân thứ nhất của việc từ bỏ minh và hạnh tối thượng này.

Hơn nữa, hãy xem một Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó, không đạt được minh và hạnh tối thượng này hoặc không sống bằng cách lượm trái cây rụng, đã đi vào vùng hoang dã mang theo cuốc và giỏ, nghĩ rằng mình sẽ sống bằng cách đào củ và hái trái.347 Thực ra, họ chỉ trở thành người phục vụ cho một người đã thành tựu minh và hạnh. Đây là nguyên nhân thứ hai của việc từ bỏ minh và hạnh tối thượng này.

Hơn nữa, hãy xem một Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó, không đạt được minh và hạnh tối thượng này, hoặc không sống bằng cách lượm trái cây rụng, hoặc không sống bằng cách đào củ và hái trái, đã dựng một nhà lửa ở gần làng hay thị trấn và ở đó thờ lửa thiêng. Thực ra, họ chỉ trở thành người phục vụ cho một người đã thành tựu minh và hạnh. Đây là nguyên nhân thứ ba của việc từ bỏ minh và hạnh tối thượng này.

Hơn nữa, hãy xem một Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó, không đạt được minh và hạnh tối thượng này, hoặc không sống bằng cách lượm trái cây rụng, hoặc không sống bằng cách đào củ và hái trái, hoặc không thờ lửa thiêng, đã dựng một nhà lửa bốn cửa ở ngã tư đường và ở đó, nghĩ rằng: 'Khi một Sa-môn hay Bà-la-môn từ bốn phương đến, ta sẽ tôn kính họ hết mức có thể.' Thực ra, họ chỉ trở thành người phục vụ cho một người đã thành tựu minh và hạnh. Đây là nguyên nhân thứ tư của việc từ bỏ minh và hạnh tối thượng này. Đây là bốn nguyên nhân của việc từ bỏ minh và hạnh tối thượng này.

Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Minh và hạnh tối thượng này có được thấy trong truyền thống của các ông không?"348

"Không, thưa Tôn giả Gotama. Tôi và truyền thống của tôi làm sao sánh được với minh và hạnh tối thượng? Chúng tôi còn xa vời lắm."

"Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Vì các ông không đạt được minh và hạnh tối thượng này, liệu các ông cùng truyền thống của mình có đi vào vùng hoang dã mang theo đồ đạc bằng đòn gánh, nghĩ rằng sẽ sống bằng cách lượm trái cây rụng không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Liệu các ông cùng truyền thống của mình... có đi vào vùng hoang dã mang theo cuốc và giỏ, nghĩ rằng sẽ sống bằng cách đào củ và hái trái không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Liệu các ông cùng truyền thống của mình... có dựng một nhà lửa ở gần làng hay thị trấn và ở đó thờ lửa thiêng không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Liệu các ông cùng truyền thống của mình... có dựng một nhà lửa bốn cửa ở ngã tư đường và ở đó, nghĩ rằng: 'Khi một Sa-môn hay Bà-la-môn từ bốn phương đến, ta sẽ tôn kính họ hết mức có thể' không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Vậy là các ông cùng truyền thống của mình không chỉ thua kém minh và hạnh tối thượng, mà thậm chí còn thua kém cả bốn nguyên nhân từ bỏ minh và hạnh tối thượng. Nhưng thầy của ngươi, Bà-la-môn Pokkharasāti, đã nói với ngươi rằng: 'Những kẻ đầu trọc, Sa-môn giả hiệu, hạ tiện, con cháu đen đúa sinh từ chân của bà con chúng ta này làm sao sánh được với việc nói chuyện với các vị Bà-la-môn Tam Minh (ba loại trí tuệ đặc biệt của Bà-la-môn)?' Tuy nhiên, chính ông ta cũng chưa hoàn thành được một trong những sự từ bỏ đó! Thấy chưa, Ambaṭṭha, thầy của ngươi Pokkharasāti đã sai lầm với ngươi như thế nào.

6. Giống như các bậc Thánh hiền xưa

Pokkharasāti sống nhờ lộc ấp do vua Pasenadi xứ Kosala ban tặng. Nhưng nhà vua thậm chí còn không cho ông ta diện kiến trực tiếp. Khi ông ta tham vấn, ông ta làm vậy sau một bức màn.349 Tại sao nhà vua lại không cho một người được nhận sự cúng dường thực phẩm hợp pháp của mình được diện kiến trực tiếp? Thấy chưa, Ambaṭṭha, thầy của ngươi Pokkharasāti đã sai lầm với ngươi như thế nào.

Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Giả sử vua Pasenadi đang hội ý với các tướng lĩnh hay tù trưởng khi đang ngồi trên cổ voi hay trên lưng ngựa, hoặc khi đang đứng trên thảm trên xe ngựa.350 Và giả sử vua xuống khỏi chỗ đó và đứng sang một bên. Rồi một người làm công hay nô bộc của họ đến, đứng vào cùng chỗ đó và tiếp tục cuộc hội ý: 'Đây là điều vua Pasenadi nói, và đây cũng là điều vua nói.' Mặc dù người đó nói lời của vua và đưa ra lời khuyên của vua,351 điều đó có đủ tư cách để người đó trở thành vua hay quan đại thần của vua không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Cũng vậy, Ambaṭṭha, các vị tiên nhân cổ xưa (ancient seers / những nhà hiền triết, đạo sĩ thời xưa) của Bà-la-môn là Aṭṭhaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamadaggi, Aṅgīrasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, và Bhagu. Họ là những người sáng tác và truyền bá các thánh ca. Tập thánh ca của họ đã được hát, truyền bá và biên soạn từ thời cổ đại; và ngày nay, các vị Bà-la-môn vẫn tiếp tục hát và tụng nó, tụng những gì đã được tụng và dạy những gì đã được dạy.352 Ngươi có thể tưởng tượng rằng, vì ngươi đã học thuộc lòng các thánh ca của họ trong truyền thống của mình, điều đó khiến ngươi trở thành một vị tiên nhân hay một người đang trên con đường trở thành một vị tiên nhân. Nhưng điều đó là không thể.

Ngươi nghĩ sao, Ambaṭṭha? Theo những gì ngươi đã nghe từ các vị Bà-la-môn lớn tuổi, bậc thầy của các thầy, liệu những vị tiên nhân Bà-la-môn cổ xưa đó---tắm gội sạch sẽ và xức dầu thơm, tóc râu chải chuốt, trang điểm bằng châu báu, hoa tai và vòng tay, mặc y phục trắng---có hưởng thụ năm thứ dục lạc (five kinds of sensual stimulation / năm loại kích thích giác quan: sắc, thanh, hương, vị, xúc), được cung phụng đầy đủ, giống như các ông ngày nay trong truyền thống của mình không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Họ có ăn cơm gạo ngon nấu chín, với thịt sạch được trang trí, đã nhặt bỏ hạt đen, dùng với nhiều loại canh và nước sốt, giống như các ông ngày nay trong truyền thống của mình không?"

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Họ có vui đùa với những cô gái mặc yếm khoe đường cong, giống như các ông ngày nay trong truyền thống của mình không?"353

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Họ có đi lại bằng xe ngựa do ngựa cái bờm thắt bím kéo, dùng roi dài quất ngựa thúc đi, giống như các ông ngày nay trong truyền thống của mình không?"354

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Họ có để những người đàn ông mang gươm dài canh gác trong các pháo đài có hào sâu và rào chắn, giống như các ông ngày nay trong truyền thống của mình không?"355

"Không, thưa Tôn giả Gotama."

"Vậy, Ambaṭṭha, trong truyền thống của chính ngươi, ngươi không phải là tiên nhân cũng không phải là người đang trên con đường trở thành tiên nhân. Bất cứ ai có bất kỳ nghi ngờ hay phân vân nào về Ta, hãy hỏi Ta và Ta sẽ giải tỏa những nghi ngờ của họ bằng câu trả lời của Ta."356

7. Thấy được hai tướng

Bấy giờ Đức Phật ra khỏi cốc của Ngài và bắt đầu kinh hành,357 Ambaṭṭha cũng làm như vậy. Rồi trong khi đi bên cạnh Đức Phật, Ambaṭṭha quan sát kỹ thân thể của Ngài để tìm ba mươi hai tướng của bậc đại nhân.358 Anh ta thấy tất cả các tướng trừ hai tướng mà anh ta còn nghi ngờ: liệu mã âm tàng (private parts are covered in a foreskin / bộ phận sinh dục nam được bao bọc trong da) và lưỡi rộng dài (largeness of the tongue / lưỡi lớn và dài, có thể chạm đến tai và trán).

Bấy giờ Đức Phật khởi ý nghĩ: "Học trò Ambaṭṭha này thấy tất cả các tướng trừ hai tướng mà anh ta còn nghi ngờ: liệu mã âm tàng và lưỡi rộng dài." Rồi Đức Phật dùng thần lực (psychic power / năng lực siêu nhiên) của Ngài để khiến Ambaṭṭha thấy được mã âm tàng của Ngài.359 Và Ngài thè lưỡi ra liếm qua lại hai lỗ tai và hai lỗ mũi, và che kín cả vầng trán bằng lưỡi.

Bấy giờ Ambaṭṭha nghĩ: "Sa-môn Gotama sở hữu đầy đủ ba mươi hai tướng, không thiếu một tướng nào."

Anh ta nói với Đức Phật: "Thưa ngài, bây giờ tôi phải đi. Tôi có nhiều việc phải làm."

"Này Ambaṭṭha, ngươi hãy đi khi nào thấy thuận tiện." Rồi Ambaṭṭha lên cỗ xe do ngựa cái kéo và rời đi.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Pokkharasāti đã từ Ukkaṭṭhā ra đi cùng với một nhóm đông các vị Bà-la-môn và đang ngồi trong khu vườn của mình chỉ để đợi Ambaṭṭha. Rồi Ambaṭṭha vào khu vườn. Anh ta đi xe ngựa đến hết đoạn đường có thể đi, rồi xuống xe và đi bộ đến gặp Bà-la-môn Pokkharasāti. Anh ta cúi đầu và ngồi xuống một bên, và Pokkharasāti nói với anh ta:

"Này Ambaṭṭha thân mến, ta hy vọng con đã gặp Tôn giả Gotama?"

"Thưa ngài, con đã gặp."

"Vậy, ngài ấy có đúng với danh tiếng của mình hay không?"

"Thưa ngài, có. Tôn giả Gotama sở hữu đầy đủ ba mươi hai tướng, không thiếu một tướng nào."

"Và con có thảo luận gì với ngài ấy không?"

"Thưa có."

"Và con đã thảo luận những gì với ngài ấy?" Rồi Ambaṭṭha kể lại cho Pokkharasāti tất cả những gì họ đã thảo luận.

Bấy giờ Pokkharasāti nói với Ambaṭṭha: "Ôi, thằng học giả giả danh chết tiệt của chúng ta, thằng học giả rởm, kẻ giả vờ thông thạo Tam Vệ-đà! Một kẻ hành xử như thế này, sau khi thân hoại mạng chung (when their body breaks up, after death / sau khi chết), đáng lẽ phải tái sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục (place of loss, a bad place, the underworld, hell / những nơi tái sinh khổ đau sau khi chết).360 Chỉ vì ngươi liên tục công kích Tôn giả Gotama như vậy mà ngài ấy cứ liên tục đưa ra những lời buộc tội chống lại chúng ta!"361 Tức giận và khó chịu, ông ta đá Ambaṭṭha ngã nhào,362 và muốn đi gặp Đức Phật ngay lập tức.

8. Pokkharasāti đến thăm Đức Phật

Bấy giờ các vị Bà-la-môn kia nói với Pokkharasāti: "Hôm nay đã quá muộn để đến thăm Sa-môn Gotama. Ngài có thể đến thăm vào ngày mai."363

Vậy là Pokkharasāti cho chuẩn bị các món ăn ngon, tươi và nấu chín tại nhà mình. Rồi ông lên xe ngựa, cùng với những người hầu cầm đuốc, từ Ukkaṭṭhā lên đường đến khu rừng gần Icchānaṅgala.364 Ông đi xe ngựa đến hết đoạn đường có thể đi, rồi xuống xe và đi bộ vào tịnh xá. Ông đến gặp Đức Phật và chào hỏi Ngài. Sau khi chào hỏi và chuyện trò thân mật xong, ông ngồi xuống một bên và nói với Đức Phật: "Tôn giả Gotama, có phải đệ tử nội trú của tôi, học trò Ambaṭṭha, đã đến đây không?"

"Thưa Bà-la-môn, anh ta đã đến."

"Và ngài có thảo luận gì với anh ta không?"

"Có."

"Và ngài đã thảo luận những gì với anh ta?"365 Rồi Đức Phật kể lại cho Pokkharasāti tất cả những gì họ đã thảo luận.

Bấy giờ Pokkharasāti nói với Đức Phật: "Ambaṭṭha là một kẻ ngu dốt, thưa Tôn giả Gotama. Xin Tôn giả hãy tha thứ cho nó."366

"Mong cho học trò Ambaṭṭha được an vui, này Bà-la-môn."367

Rồi Pokkharasāti quan sát kỹ thân thể của Đức Phật để tìm ba mươi hai tướng của bậc đại nhân. Ông thấy tất cả các tướng trừ hai tướng mà ông còn nghi ngờ: liệu mã âm tàng và lưỡi rộng dài.

Bấy giờ Đức Phật khởi ý nghĩ: "Pokkharasāti thấy tất cả các tướng trừ hai tướng mà ông còn nghi ngờ: liệu mã âm tàng và lưỡi rộng dài." Rồi Đức Phật dùng thần lực của Ngài để khiến Pokkharasāti thấy được mã âm tàng của Ngài. Và Ngài thè lưỡi ra liếm qua lại hai lỗ tai và hai lỗ mũi, và che kín cả vầng trán bằng lưỡi.

Pokkharasāti nghĩ: "Sa-môn Gotama sở hữu đầy đủ ba mươi hai tướng, không thiếu một tướng nào."

Ông nói với Đức Phật: "Xin Tôn giả Gotama cùng Tăng đoàn tỳ khưu nhận lời mời dùng bữa hôm nay của tôi được không?" Đức Phật im lặng nhận lời (consented with silence / sự đồng ý bằng cách không nói gì, một cách chấp nhận trong Phật giáo).

Rồi, biết Đức Phật đã nhận lời, Pokkharasāti báo giờ với Ngài: "Đã đến giờ, thưa Tôn giả Gotama, bữa ăn đã sẵn sàng." Bấy giờ, vào buổi sáng, Đức Phật đắp y, mang theo y bát, cùng Tăng đoàn tỳ khưu đến nhà của Pokkharasāti, và ngồi vào chỗ ngồi đã dọn sẵn.368 Rồi Pokkharasāti tự tay dâng cúng và làm cho Đức Phật hài lòng bằng những món ăn ngon, tươi và nấu chín, trong khi các thanh niên học trò của ông phục vụ Tăng đoàn. Khi Đức Phật đã dùng bữa xong và rửa tay và bát, Pokkharasāti lấy một chiếc ghế thấp và ngồi xuống một bên.

Bấy giờ Đức Phật thuyết pháp tuần tự (taught him step by step / giảng dạy theo trình tự từ thấp đến cao), với bài pháp về bố thí, giới đức (ethical conduct / hành vi đạo đức), và các cõi trời. Ngài giải thích sự nguy hại của các dục lạc (drawbacks of sensual pleasures / những tác hại của việc ham muốn các thú vui giác quan), sự thấp kém và ô nhiễm của chúng, và lợi ích của sự xuất ly (benefit of renunciation / những điều tốt đẹp của việc từ bỏ, thoát khỏi ràng buộc).369 Và khi Đức Phật biết tâm của Pokkharasāti đã sẵn sàng, nhu nhuyến, không còn triền cái (hindrances / năm pháp cản trở tâm định: tham dục, sân hận, tâm trí đờ đẫn và buồn ngủ, tâm bất an và hối tiếc, nghi ngờ), hân hoan và có niềm tin, Ngài đã giải thích pháp yếu đặc biệt của chư Phật: khổ, tập, diệt, đạo (Four Noble Truths / Tứ Diệu Đế: sự thật về khổ, nguyên nhân của khổ, sự chấm dứt khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt khổ).370 Giống như tấm vải sạch không còn vết bẩn dễ dàng thấm thuốc nhuộm, ngay tại chỗ ngồi đó, pháp nhãn thanh tịnh, không tỳ vết (stainless, immaculate vision of the Dhamma / con mắt trí tuệ thấy rõ giáo pháp một cách trong sạch, không còn ô nhiễm) đã khởi lên trong Bà-la-môn Pokkharasāti:371 "Phàm cái gì có sanh khởi, cái đó đều có đoạn diệt."372 (Pháp (Dhamma / Giáo pháp của Đức Phật, chân lý))

9. Pokkharasāti Tuyên Bố Mình Là Cư Sĩ

Bấy giờ Pokkharasāti thấy Pháp, đạt đến Pháp, hiểu rõ Pháp, và thâm nhập Pháp. Ông vượt qua mọi nghi ngờ, thoát khỏi sự do dự, và trở nên tự tin và không còn phụ thuộc vào người khác đối với lời dạy của Bậc Đạo Sư (Teacher / một danh xưng tôn kính dành cho Đức Phật). Ông nói với Đức Phật: "Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay! Như người dựng lại cái bị lật đổ, hay phơi bày cái bị che giấu, hay chỉ đường cho người lạc lối, hay thắp đèn trong bóng tối để người có mắt sáng có thể thấy những gì ở đó, Tôn giả Gotama cũng đã làm cho Giáo Pháp trở nên rõ ràng bằng nhiều cách như vậy. Cùng với con cái, vợ, đoàn tùy tùng và các quan đại thần của tôi, tôi xin quy y (go for refuge / nương tựa vào Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng) Tôn giả Gotama, quy y Pháp, và quy y Tăng đoàn tỳ khưu. Từ hôm nay trở đi, xin Tôn giả Gotama hãy ghi nhớ tôi là một upasaka (lay follower / nam cận sự, người tại gia theo Phật) đã quy y trọn đời.

Cũng như Tôn giả Gotama đến thăm các gia đình tín tâm khác ở Ukkaṭṭhā, xin Ngài hãy đến thăm gia đình tôi.373 Các chàng trai và cô gái Bà-la-môn ở đó sẽ đảnh lễ ngài, đứng dậy khi ngài đến, dâng ghế và nước, và phát sinh niềm tin trong tâm. Điều đó sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho họ."374

"Thật tốt khi ông nói vậy, này gia chủ."375