Skip to content

5. Với Kūṭadanta

Kūṭadanta

1. Các Bà-la-môn và Gia chủ ở Khāṇumata

[Như vầy tôi nghe.403]Một thời Đức Phật du hành trong xứ Ma-kiệt-đà cùng với một đại Tăng đoàn gồm năm trăm vị tỳ kheo khi Ngài đến một ngôi làng của các Bà-la-môn xứ Ma-kiệt-đà tên là Khāṇumata.404 Ở đó, Ngài trú gần Ambalaṭṭhikā.405

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kūṭadanta đang sống ở Khāṇumata. Đó là đất của vua ban do Vua Seniya Bimbisāra xứ Ma-kiệt-đà ban tặng, đông đúc chúng sinh, đầy cỏ, gỗ, nước và ngũ cốc, một khu vườn hoàng gia ban cho một vị Bà-la-môn.406 Lúc bấy giờ, Kūṭadanta đã chuẩn bị một cuộc đại tế lễ. Bò đực, bò tơ, bò cái tơ, dê và cừu đực---mỗi loại bảy trăm con---đã được dẫn đến trụ tế để làm vật hiến tế.407

Các Bà-la-môn và gia chủ ở Khāṇumata nghe rằng:

"Hình như Sa-môn Gotama---một người dòng Thích Ca, xuất gia từ dòng dõi Thích Ca---đã đến Khāṇumata và đang trú tại Ambalaṭṭhikā. Ngài có tiếng tốt đồn xa như sau: 'Vị Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán (perfected / người đã đạt đến sự giải thoát hoàn toàn), một vị Chánh Đẳng Chánh Giác (fully awakened Buddha / vị Phật giác ngộ hoàn toàn và đúng đắn), bậc Minh Hạnh Túc (accomplished in knowledge and conduct / người đầy đủ trí tuệ và đức hạnh), bậc Thiện Thệ (holy / người đã đi qua một cách tốt đẹp, đạt đến Niết-bàn), bậc Thế Gian Giải (knower of the world / người hiểu biết thế gian), bậc Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu (supreme guide for those who wish to train / bậc tối cao dẫn dắt những người cần được huấn luyện), bậc Thiên Nhân Sư (teacher of gods and humans / thầy của trời và người), bậc Phật (awakened / người đã giác ngộ), bậc Bạc-già-phạm (Bhagavā / Bậc Tôn Quý, Đấng Thế Tôn).' Ngài đã tự mình chứng ngộ bằng trí tuệ thế giới này—với các vị trời, Ma vương, và Phạm thiên, chúng sanh này với các Sa-môn và Bà-la-môn, chư thiên và loài người---và Ngài làm cho người khác biết đến. Ngài thuyết giảng giáo pháp toàn thiện ở phần đầu, toàn thiện ở phần giữa, và toàn thiện ở phần cuối, có ý nghĩa và văn cú rõ ràng. Và Ngài trình bày đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh. Lành thay, được yết kiến các bậc A-la-hán như vậy."

Sau đó, rời khỏi Khāṇumata, họ kết thành từng đoàn và tiến về Ambalaṭṭhikā.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kūṭadanta đã lui về tầng trên của ngôi nhà sàn dài của mình để nghỉ trưa. Ông thấy các Bà-la-môn và gia chủ đang tiến về Ambalaṭṭhikā, và nói với người quản gia của mình: "Này quản gia, tại sao các Bà-la-môn và gia chủ lại tiến về Ambalaṭṭhikā?"

"Sa-môn Gotama đã đến Khāṇumata và đang trú tại Ambalaṭṭhikā. Ngài có tiếng tốt đồn xa như sau: 'Vị Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, một vị Chánh Đẳng Chánh Giác, bậc Minh Hạnh Túc, bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải, bậc Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, bậc Thiên Nhân Sư, bậc Phật, bậc Bạc-già-phạm.' Họ đang đi để yết kiến Tôn giả Gotama."

Khi đó Kūṭadanta nghĩ: "Ta nghe nói Sa-môn Gotama biết cách thực hiện tế lễ với ba phương thức và mười sáu phụ trợ.408 Ta không biết về điều đó, nhưng ta muốn thực hiện một cuộc đại tế lễ. Sao ta không hỏi ngài ấy cách thực hiện tế lễ với ba phương thức và mười sáu phụ trợ?"409

Sau đó Kūṭadanta nói với người quản gia của mình: "Vậy thì, hãy đến gặp các Bà-la-môn và gia chủ và nói với họ: 'Thưa quý vị, Bà-la-môn Kūṭadanta xin quý vị đợi một chút, vì ông ấy cũng sẽ đi yết kiến Sa-môn Gotama.'"

"Vâng, thưa ngài," người quản gia đáp, và làm theo lời dặn.

2. Phẩm Chất Của Kūṭadanta

Lúc bấy giờ, vài trăm vị Bà-la-môn đang cư trú tại Khāṇumata với ý định tham dự vào tế lễ của Kūṭadanta. Họ nghe rằng Kūṭadanta sẽ đi yết kiến Sa-môn Gotama. Họ đến gặp Kūṭadanta và nói với ông:

"Có thật là ngài định đến yết kiến Sa-môn Gotama không?"

"Vâng, thưa quý vị, đúng vậy."

"Xin ngài đừng đi! Ngài đi yết kiến Sa-môn Gotama là không thích hợp. Vì nếu ngài làm vậy, danh tiếng của ngài sẽ giảm sút và danh tiếng của ông ấy sẽ tăng lên. Vì lý do này, ngài đi yết kiến Sa-môn Gotama là không thích hợp; Sa-môn Gotama đến yết kiến ngài mới là thích hợp.

Ngài xuất thân cao quý cả từ bên mẹ lẫn bên cha, dòng dõi thuần khiết, gia phả không thể chê trách và không tỳ vết cho đến bảy đời tổ phụ. Vì lý do này, ngài đi yết kiến Sa-môn Gotama là không thích hợp; Sa-môn Gotama đến yết kiến ngài mới là thích hợp.

Ngài giàu có, sung túc, và dư dả, với nhiều tài sản và của cải, và nhiều tiền bạc và ngũ cốc ...

Ngài tụng đọc và ghi nhớ các thánh ca, và đã thông thạo ba tập Vệ-đà, cùng với từ vựng và nghi thức tế lễ, âm vị học và phân loại từ, và các thánh điển là phần thứ năm. Ngài biết từng từ một, và ngữ pháp của chúng. Ngài thông thạo vũ trụ luận và các tướng của bậc đại nhân. ...

Ngài dung mạo ưa nhìn, đẹp đẽ, khả ái, với vẻ đẹp vượt trội. Ngài oai nghiêm và rực rỡ như một vị Thần, đáng để chiêm ngưỡng. ...

Ngài có đạo đức, trưởng thành trong giới đức (ethical conduct / hành vi đạo đức). ...

Ngài là người nói hay, phát âm tốt, với giọng nói trau chuốt, rõ ràng và mạch lạc, diễn đạt được ý nghĩa. ...

Ngài dạy cho nhiều thầy giáo, và dạy ba trăm học trò trẻ tụng đọc các thánh ca. Nhiều học trò từ các quận huyện và quốc gia khác nhau đến vì các thánh ca, mong muốn học các thánh ca. ...

Ngài già cả, lớn tuổi và cao niên, tuổi đã cao, và đã đến giai đoạn cuối của cuộc đời. Sa-môn Gotama còn trẻ, và mới xuất gia. ...

Ngài được Vua Bimbisāra xứ Ma-kiệt-đà tôn kính, kính trọng, tôn thờ, sùng kính và quý mến ...

và Bà-la-môn Pokkharasāti. ...

Ngài sống ở Khāṇumata, một vùng đất của vua ban do Vua Seniya Bimbisāra xứ Ma-kiệt-đà ban tặng, đông đúc chúng sinh, đầy cỏ, gỗ, nước và ngũ cốc, một khu vườn hoàng gia ban cho một vị Bà-la-môn. Vì lý do này, ngài đi yết kiến Sa-môn Gotama là không thích hợp; Sa-môn Gotama đến yết kiến ngài mới là thích hợp."

3. Phẩm Chất Của Đức Phật

Khi họ nói xong, Kūṭadanta nói với các Bà-la-môn đó:

"Vậy thì, thưa quý vị, hãy nghe tại sao tôi đi yết kiến Sa-môn Gotama là thích hợp, và ngài ấy đến yết kiến tôi là không thích hợp. Ngài ấy xuất thân cao quý cả từ bên mẹ lẫn bên cha, dòng dõi thuần khiết, gia phả không thể chê trách và không tỳ vết cho đến bảy đời tổ phụ. Vì lý do này, Sa-môn Gotama đến yết kiến tôi là không thích hợp; đúng hơn, tôi đi yết kiến ngài ấy mới là thích hợp.

Khi xuất gia, ngài đã từ bỏ một gia tộc lớn. ...

Khi xuất gia, ngài đã từ bỏ vô số vàng bạc, cả tiền đúc lẫn vàng khối, cất giữ trong hầm ngục và kho tàng. ...

Ngài từ bỏ đời sống thế tục để sống không nhà cửa khi còn là một thanh niên, trẻ trung, với mái tóc đen nhánh, được ban phước với tuổi trẻ, đang trong thời kỳ sung mãn nhất của cuộc đời. ...

Dù cha mẹ ngài không muốn, khóc lóc với khuôn mặt đẫm lệ, ngài đã cạo bỏ râu tóc, khoác y vàng nghệ, và từ bỏ đời sống thế tục để sống không nhà cửa. ...

Ngài dung mạo ưa nhìn, đẹp đẽ, khả ái, với vẻ đẹp vượt trội. Ngài oai nghiêm và rực rỡ như một vị Thần, đáng để chiêm ngưỡng. ...

Ngài có đạo đức, sở hữu giới đức cao thượng và thiện giới (skillful ethics / ứng dụng đạo đức một cách khéo léo). ...

Ngài là người nói hay, phát âm tốt, với giọng nói trau chuốt, rõ ràng và mạch lạc, diễn đạt được ý nghĩa. ...

Ngài là thầy của các bậc thầy. ...

Ngài đã chấm dứt dục tham (sensual desire / ham muốn các dục), và thoát khỏi sự thất thường. ...

Ngài dạy về hiệu quả của hành động và nghiệp báo. Ngài không muốn gây hại cho cộng đồng Bà-la-môn. ...

Ngài xuất gia từ một gia tộc lỗi lạc thuộc dòng dõi quý tộc không gián đoạn. ...

Ngài xuất gia từ một gia đình giàu có, sung túc và dư dả. ...

Người ta từ những vùng đất xa xôi và những quốc gia xa xôi đến để hỏi đạo ngài. ...

Nhiều ngàn vị trời đã quy y trọn đời nơi ngài. ...

Ngài có tiếng tốt đồn xa như sau: 'Vị Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, một vị Chánh Đẳng Chánh Giác, bậc Minh Hạnh Túc, bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải, bậc Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, bậc Thiên Nhân Sư, bậc Phật, bậc Bạc-già-phạm.' ...

Ngài có ba mươi hai tướng của bậc đại nhân. ...

Ngài niềm nở, thân thiện, lịch sự, mỉm cười, cởi mở, là người bắt chuyện trước. ...

Ngài được tứ chúng tôn kính, kính trọng, tôn thờ, sùng kính và quý mến. ...

Nhiều vị trời và người đều hết lòng kính mộ ngài. ...

Khi ngài trú ngụ trong một làng hay thị trấn, các thực thể phi nhân không quấy nhiễu họ. ...

Ngài lãnh đạo một giáo hội và một cộng đồng, và hướng dẫn một cộng đồng, và được cho là bậc tối thắng trong số các nhà sáng lập tôn giáo khác nhau. Ngài không có được danh tiếng theo cách của các Sa-môn và Bà-la-môn khác. Thay vào đó, ngài có được danh tiếng nhờ vào trí tuệ và đức hạnh tối thượng của mình. ...

Vua Seniya Bimbisāra xứ Ma-kiệt-đà cùng vợ con đã quy y trọn đời nơi Sa-môn Gotama. ...

Vua Pasenadi xứ Kosala cùng vợ con đã quy y trọn đời nơi Sa-môn Gotama. ...

Bà-la-môn Pokkharasāti cùng vợ con đã quy y trọn đời nơi Sa-môn Gotama. ...

Ngài được Vua Bimbisāra xứ Ma-kiệt-đà tôn kính, kính trọng, tôn thờ, sùng kính và quý mến ...

Vua Pasenadi xứ Kosala ...

và Bà-la-môn Pokkharasāti.

Sa-môn Gotama đã đến Khāṇumata và đang trú tại Ambalaṭṭhikā. Bất kỳ Sa-môn hay Bà-la-môn nào đến trú ngụ trong quận làng của chúng ta đều là khách của chúng ta, và nên được tôn kính và kính trọng như vậy. Vì lý do này, Tôn giả Gotama đến yết kiến tôi cũng không thích hợp, đúng hơn, tôi đi yết kiến ngài ấy mới là thích hợp. Đây là những lời tán thán Tôn giả Gotama mà tôi đã ghi nhớ. Nhưng những lời tán thán ngài không chỉ giới hạn ở đây, vì sự tán thán Tôn giả Gotama là vô lượng."

Khi ông nói xong, các Bà-la-môn kia nói với ông: "Theo những lời tán thán của Kūṭadanta, nếu Tôn giả Gotama ở cách xa trăm do-tuần (league / đơn vị đo lường cổ của Ấn Độ, khoảng 7-13km), thì một người thiện tín cũng đáng để đi yết kiến ngài, dù phải tự mang lương thực trong túi vải."

"Vậy thì, thưa quý vị, tất cả chúng ta hãy cùng đi yết kiến Sa-môn Gotama."

4. Câu Chuyện Về Cuộc Tế Lễ Của Vua Mahāvijita

Sau đó Kūṭadanta cùng với một nhóm lớn Bà-la-môn đi yết kiến Đức Phật và chào hỏi ngài. Sau khi chào hỏi và nói chuyện thân mật xong, ông ngồi xuống một bên. Trước khi ngồi xuống một bên, một số Bà-la-môn và gia chủ ở Khāṇumata đã đảnh lễ, một số chào hỏi và nói chuyện thân mật, một số chắp tay hướng về Đức Phật, một số xưng tên và dòng họ, trong khi một số giữ im lặng.

Kūṭadanta nói với Đức Phật: "Thưa Tôn giả Gotama, tôi nghe nói ngài biết cách thực hiện tế lễ với ba phương thức và mười sáu phụ trợ. Tôi không biết về điều đó, nhưng tôi muốn thực hiện một cuộc đại tế lễ. Xin ngài dạy tôi cách thực hiện tế lễ với ba phương thức và mười sáu phụ trợ."

"Vậy thì, này Bà-la-môn, hãy lắng nghe và suy nghĩ với trí tuệ, Ta sẽ nói."410

"Vâng, thưa ngài," Kūṭadanta đáp. Đức Phật nói điều này: "Này Bà-la-môn, ngày xưa, có một vị vua tên là Mahāvijita. Ngài giàu có, sung túc, và dư dả, với nhiều vàng bạc, nhiều tài sản và của cải, nhiều tiền bạc và ngũ cốc, và kho tàng đầy ắp.411 Khi đó, trong lúc Vua Mahāvijita đang độc cư thiền tịnh, ý nghĩ này khởi lên trong tâm ngài:412 'Ta đã đạt được sự giàu sang của loài người, và trị vì sau khi chinh phục lãnh thổ rộng lớn này. Sao ta không tổ chức một cuộc đại tế lễ? Điều đó sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho ta.'413

Sau đó, ngài triệu tập vị Bà-la-môn chủ tế và nói với ông:414 'Vừa rồi, này Bà-la-môn, khi ta đang độc cư thiền tịnh, ý nghĩ này khởi lên trong tâm, "Ta đã đạt được sự giàu sang của loài người, và trị vì sau khi chinh phục lãnh thổ rộng lớn này. Sao ta không thực hiện một cuộc đại tế lễ? Điều đó sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho ta." Này Bà-la-môn, ta muốn thực hiện một cuộc đại tế lễ. Xin hãy chỉ dạy cho ta. Điều đó sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho ta.'

Khi ngài nói xong, vị Bà-la-môn chủ tế nói với ngài: 'Thưa Đại vương, vương quốc của ngài đang bị quấy nhiễu và áp bức. Cướp bóc làng mạc, thị trấn, và thành phố đã xảy ra, và nạn trộm cướp hoành hành trên các con đường lớn.415 Nhưng nếu Đại vương tăng thêm thuế trong khi vương quốc đang bị quấy nhiễu và áp bức như vậy, ngài sẽ không làm tròn bổn phận của mình.416

Bây giờ Đại vương có thể nghĩ, "Ta sẽ diệt trừ tai họa giặc cướp này bằng cách xử tử, bỏ tù, tịch thu tài sản, kết án hoặc trục xuất!" Nhưng đó không phải là cách đúng đắn để diệt trừ tai họa giặc cướp này.417 Những kẻ còn lại sau khi bị giết sẽ quay lại quấy nhiễu vương quốc của Đại vương.418

Thay vào đó, đây là một kế hoạch, dựa vào đó tai họa giặc cướp sẽ được nhổ tận gốc một cách đúng đắn.419 Vậy, Đại vương hãy cung cấp hạt giống và thức ăn gia súc cho những người trong vương quốc làm nghề trồng trọt và chăn nuôi.420 Đại vương hãy cung cấp vốn cho những người làm nghề buôn bán. Đại vương hãy đảm bảo lương thực và tiền lương cho những người phục vụ trong chính quyền. Khi đó, người dân, bận rộn với công việc của mình, sẽ không quấy nhiễu vương quốc.421 Ngân khố của Đại vương sẽ dồi dào.422 Khi đất nước được bảo đảm như một nơi trú ẩn an toàn, không còn bị quấy nhiễu và áp bức, người dân hạnh phúc, với niềm vui trong lòng, nhảy múa với con trẻ trên tay, sẽ sống như thể nhà cửa của họ luôn rộng mở.'423

Nhà vua đồng ý với lời khuyên của vị thượng tế và làm theo khuyến nghị của ông.424

Sau đó, nhà vua triệu tập vị Bà-la-môn chủ tế và nói với ông: 'Ta đã diệt trừ tai họa giặc cướp. Và dựa vào kế hoạch của khanh, ngân khố của ta nay đã dồi dào. Vì đất nước được bảo đảm như một nơi trú ẩn an toàn, không còn bị quấy nhiễu và áp bức, người dân hạnh phúc, với niềm vui trong lòng, nhảy múa với con trẻ trên tay, sống như thể nhà cửa của họ luôn rộng mở. Này Bà-la-môn, ta muốn thực hiện một cuộc đại tế lễ. Xin hãy chỉ dạy cho ta. Điều đó sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho ta.'

4.1. Bốn Phụ Trợ

'Trong trường hợp đó, Đại vương hãy thông báo điều này khắp vương quốc cho các chư hầu quý tộc ở cả thành thị và nông thôn; các quan đại thần và cố vấn ở cả thành thị và nông thôn; các Bà-la-môn giàu có ở cả thành thị và nông thôn; và các gia chủ khá giả ở cả thành thị và nông thôn.425 "Ta muốn thực hiện một cuộc đại tế lễ. Xin quý vị chấp thuận, thưa các bậc hiền nhân; điều đó sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho ta."

Nhà vua đồng ý với lời khuyên của vị thượng tế và làm theo khuyến nghị của ông. Và tất cả những người được thông báo như vậy đều đáp lại rằng: 'Xin Đại vương hãy thực hiện tế lễ! Đã đến lúc tế lễ rồi, thưa Đại vương.' Và như vậy, bốn nhóm người đồng thuận này đã trở thành những phụ trợ cho cuộc tế lễ.426

4.2. Tám Phụ Trợ

Vua Mahāvijita sở hữu tám yếu tố.427

Ngài xuất thân cao quý cả từ bên mẹ lẫn bên cha, dòng dõi thuần khiết, gia phả không thể chê trách và không tỳ vết cho đến bảy đời tổ phụ.

Ngài dung mạo ưa nhìn, đẹp đẽ, khả ái, với vẻ đẹp vượt trội. Ngài oai nghiêm và rực rỡ như một vị Thần, đáng để chiêm ngưỡng.

Ngài giàu có, sung túc, và dư dả, với nhiều vàng bạc, nhiều tài sản và của cải, nhiều tiền bạc và ngũ cốc, và kho tàng đầy ắp.

Ngài hùng mạnh, có một đội quân bốn binh chủng tuân lệnh và thực hiện mệnh lệnh. Ngài có lẽ sẽ chiến thắng kẻ thù chỉ bằng danh tiếng của mình.428

Ngài có niềm tin (faithful / tín, lòng tin tưởng vững chắc), rộng lượng, là người bố thí, cửa nhà ngài luôn rộng mở. Ngài là một nguồn hỗ trợ dồi dào, tạo phước với các Sa-môn và Bà-la-môn, cho người nghèo khổ, người lang thang, người cầu xin, và người ăn xin.

Ngài rất uyên bác trong nhiều lĩnh vực học thuật. Ngài hiểu ý nghĩa của các phát biểu khác nhau, nói rằng:429 'Đây là ý nghĩa của phát biểu đó; đó là ý nghĩa của phát biểu này.'

Ngài sáng suốt, có năng lực, và thông minh, có thể suy xét thấu đáo các vấn đề liên quan đến quá khứ, tương lai, và hiện tại.430

Đây là tám yếu tố mà Vua Mahāvijita sở hữu. Và như vậy, tám yếu tố này cũng trở thành những phụ trợ cho cuộc tế lễ.

4.3. Bốn Phụ Trợ Nữa

Và vị Bà-la-môn chủ tế có bốn yếu tố.431

Ông xuất thân cao quý cả từ bên mẹ lẫn bên cha, dòng dõi thuần khiết, gia phả không thể chê trách và không tỳ vết cho đến bảy đời tổ phụ.

Ông tụng đọc và ghi nhớ các thánh ca, và đã thông thạo ba tập Vệ-đà, cùng với từ vựng và nghi thức tế lễ, âm vị học và phân loại từ, và các thánh điển là phần thứ năm. Ông biết từng từ một, và ngữ pháp của chúng. Ông thông thạo vũ trụ luận và các tướng của bậc đại nhân.

Ông có đạo đức, trưởng thành trong giới đức.

Ông sáng suốt và khôn ngoan, là người thứ nhất hoặc thứ hai cầm muỗng tế lễ.

Đây là bốn yếu tố mà vị Bà-la-môn chủ tế sở hữu. Và như vậy, bốn yếu tố này cũng trở thành những phụ trợ cho cuộc tế lễ.

4.4. Ba Phương Thức

Tiếp theo, trước cuộc tế lễ, vị Bà-la-môn chủ tế đã dạy ba phương thức cho nhà vua. 'Bây giờ, mặc dù Đại vương muốn thực hiện một cuộc đại tế lễ, ngài có thể có những hối tiếc nhất định, nghĩ rằng: "Ta sẽ mất một tài sản lớn," hoặc432 "Ta đang mất một tài sản lớn," hoặc "Ta đã mất một tài sản lớn." Nhưng Đại vương không nên nuôi dưỡng những hối tiếc như vậy.'

Đây là ba phương thức mà vị Bà-la-môn chủ tế đã dạy cho nhà vua trước cuộc tế lễ.

4.5. Mười Phương Diện

Tiếp theo, trước cuộc tế lễ, vị Bà-la-môn chủ tế đã xua tan sự hối tiếc của nhà vua về những người nhận lễ vật ở mười phương diện:433

'Sẽ có những người đến dự tế lễ là những người sát sinh và những người từ bỏ sát sinh. Đối với những người sát sinh, kết quả của việc đó là của riêng họ. Nhưng đối với những người từ bỏ sát sinh, chính vì lợi ích của họ mà Đại vương nên tế lễ, từ bỏ, hoan hỷ, và có được sự tự tin trong lòng.434

Sẽ có những người đến dự tế lễ là những người trộm cắp ... tà dâm ... nói dối ... nói lời chia rẽ ... nói lời thô ác ... nói lời vô ích ... tham lam ... có sân hận (ill will / tâm trạng tức giận, ác ý) ... có tà kiến và những người có chánh kiến. Đối với những người có tà kiến, kết quả của việc đó là của riêng họ. Nhưng đối với những người có chánh kiến, chính vì lợi ích của họ mà Đại vương nên tế lễ, từ bỏ, hoan hỷ, và có được sự tự tin trong lòng.'

Đây là mười phương diện mà vị thượng tế đã xua tan sự hối tiếc của nhà vua về những người nhận lễ vật trước cuộc tế lễ.

4.6. Mười Sáu Phương Diện

Tiếp theo, trong khi nhà vua đang thực hiện cuộc đại tế lễ, vị Bà-la-môn thượng tế đã giáo dục, khuyến khích, khích lệ, và truyền cảm hứng cho tâm trí nhà vua ở mười sáu phương diện:

'Bây giờ, trong khi Đại vương đang thực hiện cuộc đại tế lễ, có người có thể nói, "Vua Mahāvijita thực hiện một cuộc đại tế lễ, nhưng ngài đã không thông báo cho các chư hầu quý tộc ở thành thị và nông thôn.435 Đó là loại đại tế lễ mà vị vua này thực hiện." Những người nói xấu Đại vương theo cách này là không có cơ sở. Vì Đại vương thực sự đã thông báo cho các chư hầu quý tộc ở thành thị và nông thôn. Xin Đại vương biết điều này như một lý do để tế lễ, từ bỏ, hoan hỷ, và có được sự tự tin trong lòng.

Trong khi Đại vương đang thực hiện cuộc đại tế lễ, có người có thể nói, "Vua Mahāvijita thực hiện một cuộc đại tế lễ, nhưng ngài đã không thông báo cho các chư hầu quý tộc; các quan đại thần và cố vấn; các Bà-la-môn giàu có; và các gia chủ khá giả. Đó là loại đại tế lễ mà vị vua này thực hiện." Những người nói xấu Đại vương theo cách này là không có cơ sở. Vì Đại vương thực sự đã thông báo cho tất cả những người này.436 Xin Đại vương cũng biết điều này như một lý do để tế lễ, từ bỏ, hoan hỷ, và có được sự tự tin trong lòng.

Trong khi Đại vương đang thực hiện cuộc đại tế lễ, có người có thể nói rằng ngài không sở hữu tám yếu tố. Những người nói xấu Đại vương theo cách này là không có cơ sở. Vì Đại vương thực sự sở hữu tám yếu tố. Xin Đại vương cũng biết điều này như một lý do để tế lễ, từ bỏ, hoan hỷ, và có được sự tự tin trong lòng.

Trong khi Đại vương đang thực hiện cuộc đại tế lễ, có người có thể nói rằng vị thượng tế không sở hữu bốn yếu tố. Những người nói xấu Đại vương theo cách này là không có cơ sở. Vì vị thượng tế thực sự sở hữu bốn yếu tố. Xin Đại vương cũng biết điều này như một lý do để tế lễ, từ bỏ, hoan hỷ, và có được sự tự tin trong lòng.'

Đây là mười sáu phương diện mà vị thượng tế đã giáo dục, khuyến khích, khích lệ, và truyền cảm hứng cho tâm trí nhà vua trong khi ngài đang thực hiện cuộc tế lễ.

Và này Bà-la-môn, trong cuộc tế lễ đó không có bò bị giết, không có dê hay cừu bị giết, và không có gà hay lợn bị giết. Không có sự tàn sát các loại sinh vật khác nhau. Không có cây nào bị đốn để làm trụ tế. Không có cỏ nào bị cắt để rải trên nơi tế lễ. Không có nô lệ, người hầu, hay công nhân nào làm việc dưới sự đe dọa trừng phạt và nguy hiểm, khóc lóc với khuôn mặt đẫm lệ. Những người muốn làm việc thì làm, còn những người không muốn thì không.437 Họ làm công việc họ muốn, và không làm những gì họ không muốn. Cuộc tế lễ được hoàn thành chỉ với bơ sữa tinh luyện, dầu, bơ, sữa đông, mật ong, và mật mía.438

Khi đó, các chư hầu quý tộc, các quan đại thần và cố vấn, các Bà-la-môn giàu có, và các gia chủ khá giả đến gặp nhà vua mang theo nhiều của cải và nói: 'Tâu Đại vương, số của cải dồi dào này đặc biệt dành riêng cho ngài; xin Bệ hạ nhận lấy!'439

'Ta đã có đủ từ các khoản thuế thường xuyên. Số này hãy để cho các khanh; và đây, hãy nhận thêm nữa!'

Khi nhà vua từ chối, họ lui sang một bên để bàn kế hoạch: 'Chúng ta không nên mang số của cải dồi dào này về nhà mình. Vua Mahāvijita đang thực hiện một cuộc đại tế lễ. Chúng ta hãy cúng dường như một cuộc tế lễ phụ trợ.'

Khi đó, các chư hầu quý tộc ở thành thị và nông thôn đã thiết lập các lễ vật ở phía đông của khu vực tế lễ. Các quan đại thần và cố vấn ở thành thị và nông thôn đã thiết lập các lễ vật ở phía nam của khu vực tế lễ. Các Bà-la-môn giàu có ở thành thị và nông thôn đã thiết lập các lễ vật ở phía tây của khu vực tế lễ. Các gia chủ khá giả ở thành thị và nông thôn đã thiết lập các lễ vật ở phía bắc của khu vực tế lễ.

Và này Bà-la-môn, trong cuộc tế lễ đó cũng không có bò bị giết, không có dê bị giết, và không có gà hay lợn bị giết. Không có sự tàn sát các loại sinh vật khác nhau. Không có cây nào bị đốn để làm trụ tế. Không có cỏ nào bị cắt để rải trên nơi tế lễ. Không có nô lệ, người hầu, hay công nhân nào làm việc dưới sự đe dọa trừng phạt và nguy hiểm, khóc lóc với khuôn mặt đẫm lệ. Những người muốn làm việc thì làm, còn những người không muốn thì không. Họ làm công việc họ muốn, và không làm những gì họ không muốn. Cuộc tế lễ được hoàn thành chỉ với bơ sữa tinh luyện, dầu, bơ, sữa đông, mật ong, và mật mía.

Và như vậy có bốn nhóm người đồng thuận, tám yếu tố mà Vua Mahāvijita sở hữu, bốn yếu tố mà vị thượng tế sở hữu, và ba phương thức. Này Bà-la-môn, đây được gọi là cuộc tế lễ được hoàn thành với ba phương thức và mười sáu phụ trợ."

Khi ngài nói điều này, các Bà-la-môn kia đã làm ồn ào lên,440 "Hoan hô một cuộc tế lễ như vậy! Hoan hô sự hoàn thành của một cuộc tế lễ như vậy!"

Nhưng Bà-la-môn Kūṭadanta ngồi im lặng.441 Vì vậy, các Bà-la-môn kia nói với ông: "Sao ông không tán thưởng những lời hay lẽ phải của Sa-môn Gotama?"

"Không phải là tôi không tán thưởng những gì ngài ấy nói. Nếu ai không tán thưởng những lời hay lẽ phải như vậy, đầu của họ sẽ nổ tung!

Nhưng, thưa quý vị, tôi nhận thấy rằng Sa-môn Gotama không nói: 'Như vầy tôi nghe' hay 'Nó phải như thế này.'442 Thay vào đó, ngài chỉ nói: 'Khi ấy là như vậy, lúc đó là như thế này.'

Tôi nghĩ rằng Sa-môn Gotama vào thời điểm đó hẳn phải là Vua Mahāvijita, chủ nhân của cuộc tế lễ, hoặc là vị Bà-la-môn thượng tế đã hỗ trợ ngài thực hiện tế lễ.

Tôn giả Gotama có nhớ lại việc đã thực hiện một cuộc tế lễ như vậy, hoặc đã hỗ trợ nó, và rồi, khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, được tái sinh vào một nơi tốt đẹp, một cõi trời không?"

"Ta có nhớ lại điều đó, này Bà-la-môn. Vì chính ta là vị Bà-la-môn chủ tế vào thời điểm đó đã hỗ trợ cuộc tế lễ."443

5. Cúng Dường Thường Xuyên Như Một Tế Lễ Gia Đình Liên Tục.

"Nhưng thưa Tôn giả Gotama, ngoài cuộc tế lễ được hoàn thành với ba phương thức và mười sáu phụ trợ đó, có cuộc tế lễ nào khác ít đòi hỏi và công phu hơn, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn không?"444

"Có, này Bà-la-môn."

"Nhưng đó là gì?"

"Những món quà cúng dường thường xuyên như một tế lễ gia đình liên tục, đặc biệt dâng lên các vị xuất gia có đạo đức;445 tế lễ này, này Bà-la-môn, ít đòi hỏi và công phu hơn, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn."

"Nguyên nhân là gì, thưa Tôn giả Gotama, lý do gì khiến những món quà cúng dường thường xuyên như một tế lễ gia đình liên tục đó lại ít đòi hỏi và công phu hơn, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn, so với cuộc tế lễ được hoàn thành với ba phương thức và mười sáu phụ trợ?"

"Bởi vì cả những bậc A-la-hán lẫn những người đang trên con đường tu tập để đạt đến sự hoàn thiện đều sẽ không tham dự một cuộc tế lễ như vậy. Tại sao vậy? Bởi vì ở đó người ta thấy cảnh đánh đập và siết cổ.446

Nhưng những món quà cúng dường thường xuyên như một tế lễ gia đình liên tục, đặc biệt dâng lên các vị xuất gia có đạo đức; các bậc A-la-hán và những người đang trên con đường tu tập để đạt đến sự hoàn thiện sẽ tham dự một cuộc tế lễ như vậy. Tại sao vậy? Bởi vì ở đó không thấy cảnh đánh đập và siết cổ.

Đây là nguyên nhân, này Bà-la-môn, đây là lý do tại sao những món quà cúng dường thường xuyên như một tế lễ gia đình liên tục đó lại ít đòi hỏi và công phu hơn, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn, so với cuộc tế lễ được hoàn thành với ba phương thức và mười sáu phụ trợ."

"Nhưng thưa Tôn giả Gotama, ngoài cuộc tế lễ được hoàn thành với ba phương thức và mười sáu phụ trợ và những món quà cúng dường thường xuyên như một tế lễ gia đình liên tục đó, có cuộc tế lễ nào khác ít đòi hỏi và công phu hơn, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn không?"

"Có, này Bà-la-môn."

"Nhưng đó là gì?"

"Khi một người cúng dường trú xứ đặc biệt cho Tăng đoàn bốn phương."447

"Nhưng có cuộc tế lễ nào khác ít đòi hỏi và công phu hơn, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn không?"

"Khi một người với tâm niềm tin (confident heart / tín, lòng tin tưởng vững chắc) quy y Phật, Giáo Pháp, và Tăng đoàn."

"Nhưng có cuộc tế lễ nào khác ít đòi hỏi và công phu hơn, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn không?"

"Khi một người với tâm niềm tin giữ gìn các học giới, từ bỏ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, và các chất say như rượu bia."448

"Nhưng có cuộc tế lễ nào khác ít đòi hỏi và công phu hơn, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn không?"

"Có, này Bà-la-môn.

Đó là khi một bậc Như Lai (Realized One / người đã đến như vậy, một danh hiệu của Phật) xuất hiện trên thế gian, một vị A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác ... Đó là cách một vị tỳ kheo hoàn thiện về đạo đức. ... Họ nhập và an trú trong sơ thiền (first absorption / tầng thiền định thứ nhất)... Tế lễ này ít đòi hỏi và công phu hơn tế lễ trước, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn. ...

Họ nhập và an trú trong nhị thiền (second absorption / tầng thiền định thứ hai)... tam thiền (third absorption / tầng thiền định thứ ba)... tứ thiền (fourth absorption / tầng thiền định thứ tư). Tế lễ này ít đòi hỏi và công phu hơn tế lễ trước, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn. ...

Họ hướng tâm và mở rộng tâm đến tri kiến (knowledge and vision / sự hiểu biết và thấy rõ) ... Tế lễ này ít đòi hỏi và công phu hơn tế lễ trước, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn.

Họ hiểu rằng: '... không còn gì phải làm thêm ở đây nữa.' Tế lễ này ít đòi hỏi và công phu hơn tế lễ trước, nhưng lại có nhiều kết quả và lợi ích hơn. Và, này Bà-la-môn, không có sự hoàn thành tế lễ nào khác tốt đẹp và cao thượng hơn thế này."449

6. Kūṭadanta Tuyên Bố Mình Là Cư Sĩ Tại Gia

Khi ngài nói xong, Kūṭadanta nói với Đức Phật: "Thật tuyệt vời, thưa Tôn giả Gotama! Thật tuyệt vời! Như người dựng lại những gì bị đổ, hay phơi bày những gì bị che giấu, hay chỉ đường cho người lạc lối, hay thắp đèn trong bóng tối để người có mắt sáng có thể thấy rõ mọi vật, Tôn giả Gotama đã làm sáng tỏ Giáo Pháp bằng nhiều cách. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Giáo Pháp, và quy y Tăng đoàn tỳ kheo. Từ hôm nay, xin Tôn giả Gotama ghi nhớ con là một cư sĩ tại gia (lay follower / người theo đạo Phật tại gia) đã quy y trọn đời.

Và những con bò đực, bò tơ, bò cái tơ, dê, và cừu đực này---mỗi loại bảy trăm con---con xin phóng thích chúng, con ban cho chúng sự sống! Hãy để chúng ăn cỏ xanh và uống nước mát, và mong rằng một làn gió mát sẽ thổi đến chúng!"450

7. Chứng Ngộ Quả Dự Lưu

Sau đó, Đức Phật đã dạy Kūṭadanta tuần tự, với một bài pháp về bố thí, giới đức, và các cõi trời. Ngài giải thích những nguy hại của các dục lạc, thật thấp kém và ô uế, và lợi ích của sự từ bỏ. Và khi ngài biết rằng tâm của Kūṭadanta đã sẵn sàng, mềm mại, thoát khỏi các triền cái (hindrances / những chướng ngại tâm lý), hân hoan, và có niềm tin, ngài đã giải thích giáo lý đặc biệt của các Đức Phật: khổ, nguồn gốc của khổ, sự diệt khổ, và con đường đưa đến sự diệt khổ. Giống như một tấm vải sạch không còn vết bẩn sẽ thấm thuốc nhuộm một cách thích hợp, ngay tại chỗ ngồi đó, pháp nhãn (vision of the Dhamma / con mắt thấy pháp) không tỳ vết, thanh tịnh đã khởi lên trong Bà-la-môn Kūṭadanta: "Tất cả những gì có sự sinh khởi đều có sự đoạn diệt."

Khi đó, Kūṭadanta đã thấy, đạt được, hiểu rõ, và thâm nhập Giáo Pháp. Ông vượt qua nghi ngờ, thoát khỏi sự do dự, và trở nên tự tin và không còn phụ thuộc vào người khác đối với những lời dạy của Bậc Đạo Sư. Ông nói với Đức Phật: "Xin Tôn giả Gotama cùng với Tăng đoàn tỳ kheo nhận lời mời dùng bữa ngày mai của con được không ạ?" Đức Phật đã im lặng chấp thuận.

Khi đó, biết rằng Đức Phật đã chấp thuận, Kūṭadanta đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ, và đi nhiễu quanh Đức Phật theo chiều bên phải một cách kính cẩn, trước khi rời đi. Và khi đêm đã qua Kūṭadanta đã chuẩn bị các món ăn tươi ngon và nấu chín trong khu vực tế lễ của mình. Sau đó, ông cho người báo thời gian với Đức Phật, nói rằng: "Đã đến giờ, thưa Tôn giả Gotama, bữa ăn đã sẵn sàng."

Khi đó, Đức Phật vào buổi sáng đã đắp y, mang theo bát và y, cùng với Tăng đoàn tỳ kheo đi đến khu vực tế lễ của Kūṭadanta, nơi ngài ngồi trên chỗ đã được trải sẵn.

Khi đó, Kūṭadanta đã tự tay phục vụ và làm hài lòng Tăng đoàntỳ kheo do Đức Phật dẫn đầu bằng những món ăn tươi ngon và nấu chín. Khi Đức Phật đã dùng bữa xong và rửa tay và bát, Kūṭadanta lấy một chiếc ghế thấp và ngồi xuống một bên. Sau đó, Đức Phật đã giáo dục, khuyến khích, khích lệ, và truyền cảm hứng cho ông bằng một bài Pháp thoại, sau đó ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và rời đi.