Skip to content

9. Với Poṭṭhapāda

Kinh Poṭṭhapāda

1. Về Du sĩ Poṭṭhapāda

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn ông Anāthapiṇḍika.

Lúc bấy giờ, du sĩ (wanderer / người tu khổ hạnh không theo các tôn giáo chính thống) Poṭṭhapāda cùng với ba trăm du sĩ khác đang ở tại tu viện một mái của Mallikā, nơi dành cho các cuộc tranh luận triết học, được rào bởi hàng cây gỗ mun.506 Khi ấy, vào buổi sáng, Thế Tôn đắp y, mang bát, vào Sāvatthī để khất thực.

Rồi Ngài nghĩ: “Còn quá sớm để đi khất thực ở Sāvatthī.507 Sao ta không đến tu viện của Mallikā để thăm du sĩ Poṭṭhapāda nhỉ?”508 Và Ngài đã làm như vậy.

Lúc đó, Poṭṭhapāda đang ngồi cùng với một hội chúng đông đảo các du sĩ, họ đang nói chuyện ồn ào, náo nhiệt. Họ tham gia vào đủ loại chuyện tầm phào, chẳng hạn như509 chuyện về vua chúa, trộm cướp, và quan lại; chuyện về quân đội, các mối đe dọa, và chiến tranh; chuyện về thức ăn, đồ uống, quần áo, và giường ngủ; chuyện về vòng hoa và hương liệu; chuyện về gia đình, xe cộ, làng mạc, thị trấn, thành phố, và quốc gia; chuyện về phụ nữ và anh hùng; chuyện ngoài đường và chuyện giếng nước; chuyện về người đã khuất; chuyện phiếm đủ loại; những câu chuyện về đất liền và biển cả; và chuyện về việc tái sinh ở nơi này hay nơi khác.

Poṭṭhapāda thấy Thế Tôn từ xa đi tới, liền ra hiệu cho hội chúng của mình im lặng: “Thưa quý vị, xin hãy giữ im lặng, đừng gây tiếng động. Sa-môn Gotama đang đến. Vị tôn giả ấy thích sự yên tĩnh và tán thán sự yên tĩnh. Hy vọng nếu thấy hội chúng chúng ta im lặng, ngài ấy sẽ thấy phù hợp để đến gần.”510 Rồi các du sĩ ấy im lặng.

Sau đó, Thế Tôn đến gần Poṭṭhapāda, người này nói với Ngài: “Bạch Thế Tôn, xin mời Ngài đến! 511 Kính mừng Thế Tôn! Đã lâu lắm rồi Ngài mới có dịp đến đây. Thưa Ngài, xin mời ngồi, chỗ này đã sẵn sàng.”

Thế Tôn ngồi vào chỗ đã trải sẵn, trong khi Poṭṭhapāda lấy một chiếc ghế thấp hơn và ngồi sang một bên. Thế Tôn nói với ông: “Này Poṭṭhapāda, các ông vừa ngồi nói chuyện gì vậy? Câu chuyện nào còn dang dở?”512

1.1. Về sự chấm dứt của nhận thức

Khi Ngài nói vậy, du sĩ Poṭṭhapāda thưa với Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, xin hãy bỏ qua chuyện chúng con vừa ngồi nói. Chuyện đó Ngài nghe sau cũng không muộn.

Bạch Thế Tôn, vài ngày trước, một số sa-môn và bà-la-môn theo các tôn giáo khác nhau đang ngồi cùng nhau tại giảng đường tranh luận, và một cuộc thảo luận về sự chấm dứt của nhận thức (tưởng / perceptions / nhận biết-phân biệt và gắn nhãn) đã nảy sinh giữa họ:513 ‘Sự chấm dứt của nhận thức xảy ra như thế nào?’514

Một số người nói: ‘Nhận thức của một người sinh khởi và chấm dứt không do nguyên nhân hay lý do nào cả.515 Khi chúng sinh khởi, bạn trở thành người có nhận thức. Khi chúng chấm dứt, bạn trở thành người không có nhận thức.’ Đó là cách một số người mô tả sự chấm dứt của nhận thức.

Nhưng người khác lại nói: ‘Thưa quý vị, không phải như vậy! 516 Nhận thức là tự ngã (self / cái tôi, bản ngã) của một người,517 nó đi vào và đi ra. Khi nó đi vào, bạn trở thành người có nhận thức. Khi nó đi ra, bạn trở thành người không có nhận thức.’518 Đó là cách một số người mô tả sự chấm dứt của nhận thức.

Nhưng người khác nữa lại nói: ‘Thưa quý vị, không phải như vậy! Có những sa-môn và bà-la-môn có năng lực và sức mạnh vĩ đại.519 Họ đưa nhận thức vào và lấy nhận thức ra khỏi một người.520 Khi họ đưa nó vào, bạn trở thành người có nhận thức. Khi họ lấy nó ra, bạn trở thành người không có nhận thức.’ Đó là cách một số người mô tả sự chấm dứt của nhận thức.

Nhưng một người khác nữa lại nói: ‘Thưa quý vị, không phải như vậy! Có những vị trời có năng lực và sức mạnh vĩ đại. Họ đưa nhận thức vào và lấy nhận thức ra khỏi một người. Khi họ đưa nó vào, bạn trở thành người có nhận thức. Khi họ lấy nó ra, bạn trở thành người không có nhận thức.’ Đó là cách một số người mô tả sự chấm dứt của nhận thức.

Điều đó làm con nhớ đến Thế Tôn: ‘Chắc chắn phải là Thế Tôn, Đấng Thiêng Liêng, người rất thiện xảo trong những vấn đề như vậy.’ Thế Tôn thiện xảo và thông suốt về sự chấm dứt của nhận thức.521 Sự chấm dứt của nhận thức xảy ra như thế nào?”

1.2. Nhận thức sinh khởi có nguyên nhân

“Về vấn đề này, này Poṭṭhapāda, những sa-môn và bà-la-môn nói rằng "nhận thức của một người sinh khởi và chấm dứt không do nguyên nhân hay lý do nào cả" là sai lầm ngay từ đầu. Tại sao vậy? Bởi vì nhận thức của một người sinh khởi và chấm dứt đều có nguyên nhân và lý do. Với sự tu tập, một số nhận thức được sinh khởi và một số nhận thức bị chấm dứt.522

Và sự tu tập đó là gì?” Thế Tôn nói.523

“Đó là khi một Như Lai (Realized One / Tathāgata, bậc đã đạt đến chân lý như thật) xuất hiện trên thế gian, một bậc A-la-hán, một vị Phật hoàn toàn giác ngộ… Đó là cách một vị tỷ-kheo thành tựu giới đức (ethical conduct / hành vi đạo đức). …524

Thấy rằng các triền cái (hindrances / nīvaraṇa, những chướng ngại tinh thần) đã được từ bỏ trong họ, niềm hân hoan khởi lên. Khi hân hoan, niềm vui (rapture / hỷ, sự vui sướng dâng trào) khởi lên. Khi tâm tràn đầy niềm vui, thân trở nên khinh an (tranquility / sự yên ổn, nhẹ nhàng của thân tâm). Khi thân khinh an, họ cảm thấy an ổn (bliss / lạc, cảm giác hạnh phúc, dễ chịu). Và khi an ổn, tâm trở nên định tĩnh (immersed / samādhi, sự tập trung cao độ của tâm).

Hoàn toàn ly dục, ly các pháp bất thiện, họ nhập và trú thiền thứ nhất, một trạng thái có niềm vui và an ổn do ly dục sinh, có tầm có tứ (placing the mind and keeping it connected / chủ động hướng ý nghĩ đến đối tượng và giữ sự quan sát đối tượng đó). Nhận thức về dục giới mà họ có trước đó chấm dứt.525 Lúc đó, họ có một nhận thức vi tế và chân thật về niềm vui và an ổn do ly dục sinh.526 Đó là cách, với sự tu tập, một số nhận thức được sinh khởi và một số nhận thức bị chấm dứt". "Và đây chính là sự tu tập đó,” Thế Tôn nói.

“Hơn nữa, khi tầm và tứ lắng dịu, một vị tỷ-kheo nhập và trú thiền thứ hai, một trạng thái có niềm vui và an ổn do định sinh, với nội tâm trong sáng và nhất tâm, không tầm, chỉ có tứ (without placing the mind, merely keeping it connected / không có sự hướng ý nghĩ đến đối tượng nào, mà đơn thuân giữ sự quan sát đối tượng bất kỳ). Nhận thức vi tế và chân thật về niềm vui và an ổn do ly dục sinh mà họ có trước đó chấm dứt. Lúc đó, họ có một nhận thức vi tế và chân thật về niềm vui và an ổn do định sinh. Đó là cách, với sự tu tập, một số nhận thức được sinh khởi và một số nhận thức bị chấm dứt. Và đây chính là sự tu tập đó,” Thế Tôn nói.

“Hơn nữa, với sự phai nhạt của niềm vui, một vị tỷ-kheo nhập và trú thiền thứ ba, nơi họ thiền với xả (upekkhā / trạng thái quân bình của tâm, không dao động trước các cảm xúc), tỉnh thức và nhận biết rõ ràng, tự thân cảm nghiệm sự an ổn mà các bậc Thánh tuyên bố: ‘Người có xả và tỉnh thức, thiền trong an ổn.’ Nhận thức vi tế và chân thật về niềm vui và an ổn do định sinh mà họ có trước đó chấm dứt. Lúc đó, họ có một nhận thức vi tế và chân thật về sự an ổn với xả. Đó là cách, với sự tu tập, một số nhận thức được sinh khởi và một số nhận thức bị chấm dứt. Và đây chính là sự tu tập đó,” Thế Tôn nói.

“Hơn nữa, từ bỏ lạc và khổ, chấm dứt hỷ và ưu trước đó, một vị tỷ-kheo nhập và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, với xả và tỉnh thức hoàn toàn thanh tịnh. Nhận thức vi tế và chân thật về sự an ổn với xả mà họ có trước đó chấm dứt. Lúc đó, họ có một nhận thức vi tế và chân thật về cảm giác trung tính. Đó là cách, với sự tu tập, một số nhận thức được sinh khởi và một số nhận thức bị chấm dứt. Và đây chính là sự tu tập đó,” Thế Tôn nói.

“Hơn nữa, một vị tỷ-kheo, hoàn toàn vượt qua nhận thức về hình sắc, với sự chấm dứt nhận thức về sự đối ngại, không chú tâm đến nhận thức về sự đa dạng, ý thức rằng ‘không gian là vô biên’, nhập và trú vào Không vô biên xứ (dimension of infinite space / cõi thiền định nơi nhận thức về không gian là vô tận).527 Nhận thức về hình sắc ánh sáng mà họ có trước đó chấm dứt.528 Lúc đó, họ có một nhận thức vi tế và chân thật về Không vô biên xứ.529 Đó là cách, với sự tu tập, một số nhận thức được sinh khởi và một số nhận thức bị chấm dứt. Và đây chính là sự tu tập đó,” Thế Tôn nói.

“Hơn nữa, một vị tỷ-kheo, hoàn toàn vượt qua Không vô biên xứ, ý thức rằng ‘thức là vô biên’, nhập và trú vào Thức vô biên xứ (dimension of infinite consciousness / cõi thiền định nơi nhận thức về tâm thức là vô tận).530 Nhận thức vi tế và chân thật về Không vô biên xứ mà họ có trước đó chấm dứt. Lúc đó, họ có một nhận thức vi tế và chân thật về Thức vô biên xứ. Đó là cách, với sự tu tập, một số nhận thức được sinh khởi và một số nhận thức bị chấm dứt. Và đây chính là sự tu tập đó,” Thế Tôn nói.

“Hơn nữa, một vị tỷ-kheo, hoàn toàn vượt qua Thức vô biên xứ, ý thức rằng ‘không có gì cả’, nhập và trú vào Vô sở hữu xứ (dimension of nothingness / cõi thiền định nơi không còn đối tượng nào để nhận thức).531 Nhận thức vi tế và chân thật về Thức vô biên xứ mà họ có trước đó chấm dứt. Lúc đó, họ có một nhận thức vi tế và chân thật về Vô sở hữu xứ. Đó là cách, với sự tu tập, một số nhận thức được sinh khởi và một số nhận thức bị chấm dứt.532 Và đây chính là sự tu tập đó,” Thế Tôn nói.

“Này Poṭṭhapāda, từ khi một vị tỷ-kheo ở đây tự chủ nhận thức của mình, vị ấy tiến từ giai đoạn này sang giai đoạn kế tiếp, dần dần đạt đến đỉnh cao của nhận thức.533 Đứng trên đỉnh cao của nhận thức, vị ấy nghĩ: ‘Sự chủ ý điều khiên ý nghĩ (Intentionality/ sự cố ý) là xấu đối với ta, tốt hơn là không có nó. Vì nếu ta có chủ ý và lựa chọn, khi những nhận thức này chấm dứt trong ta, thì những nhận thức thô thiển khác sẽ sinh khởi.534 Tại sao ta không lựa chọn cũng không hình thành chủ ý?’ Vị ấy không lựa chọn cũng không hình thành chủ ý. Những nhận thức đó chấm dứt trong vị ấy, và những nhận thức thô thiển khác không sinh khởi. Vị ấy chạm đến sự chấm dứt. Và đó, Poṭṭhapāda, là cách sự chấm dứt tuần tự của nhận thức được đạt đến với sự tỉnh thức.535

Ông nghĩ sao, Poṭṭhapāda? Ông đã từng nghe điều này trước đây chưa?”

“Chưa, thưa Ngài.536 Đây là cách con hiểu những gì Thế Tôn nói:537 ‘Từ khi một vị tỷ-kheo ở đây tự chủ nhận thức của mình, vị ấy tiến từ giai đoạn này sang giai đoạn kế tiếp, dần dần đạt đến đỉnh cao của nhận thức. Đứng trên đỉnh cao của nhận thức, vị ấy nghĩ: “Sự chủ ý điều khiên ý nghĩ là xấu đối với ta, tốt hơn là không có nó. Vì nếu ta có chủ ý và lựa chọn, khi những nhận thức này chấm dứt trong ta, thì những nhận thức thô thiển khác sẽ sinh khởi. Tại sao ta không lựa chọn cũng không hình thành chủ ý?” Những nhận thức đó chấm dứt trong vị ấy, và những nhận thức thô thiển khác không sinh khởi. Vị ấy chạm đến sự chấm dứt. Và đó là cách sự chấm dứt tuần tự của nhận thức được đạt đến với sự tỉnh thức.’”

“Đúng vậy, Poṭṭhapāda.”

“Thế Tôn mô tả chỉ một đỉnh cao của nhận thức, hay nhiều đỉnh cao?”

“Ta mô tả đỉnh cao của nhận thức vừa là một, vừa là nhiều.”

“Nhưng thưa Ngài, làm thế nào Ngài mô tả nó là một đỉnh cao và là nhiều đỉnh cao?”

“Ta mô tả đỉnh cao của nhận thức tùy theo cách thức cụ thể mà một người chạm đến sự chấm dứt.538 Đó là cách Ta mô tả đỉnh cao của nhận thức vừa là một, vừa là nhiều.”

“Nhưng thưa Ngài, nhận thức sinh khởi trước rồi tri kiến sau? Hay tri kiến sinh khởi trước rồi nhận thức sau? Hay cả hai cùng sinh khởi một lúc?”539

“Nhận thức sinh khởi trước rồi tri kiến sau. Sự sinh khởi của nhận thức dẫn đến sự sinh khởi của tri kiến.540 Họ hiểu rằng, ‘Tri kiến của ta sinh khởi từ một điều kiện cụ thể.’541 Đó là một cách để hiểu làm thế nào nhận thức sinh khởi trước và tri kiến sau; rằng sự sinh khởi của nhận thức dẫn đến sự sinh khởi của tri kiến.”

1.3. Nhận thức và Tự ngã

“Thưa Ngài, nhận thức có phải là tự ngã của một người, hay nhận thức và tự ngã là những thứ khác nhau?”542

“Nhưng Poṭṭhapāda, ông có tin vào một tự ngã không?”543

“Con tin vào một tự ngã vật chất, thưa Ngài, được hình thành, tạo thành từ bốn đại, và tiêu thụ thức ăn đặc.”544

“Giả sử có một tự ngã vật chất như vậy, Poṭṭhapāda. Trong trường hợp đó, nhận thức sẽ là một thứ, tự ngã là một thứ khác.545 Đây là một cách khác để hiểu làm thế nào nhận thức và tự ngã là những thứ khác nhau. Chừng nào tự ngã vật chất đó còn tồn tại, thì một số nhận thức vẫn sinh khởi trong một người và những nhận thức khác chấm dứt.546 Đó là một cách để hiểu làm thế nào nhận thức và tự ngã là những thứ khác nhau.”

“Thưa Ngài, con tin vào một tự ngã do tâm tạo, toàn vẹn các chi phần lớn nhỏ, không thiếu sót giác quan nào.”547

“Giả sử có một tự ngã do tâm tạo như vậy, Poṭṭhapāda. Trong trường hợp đó, nhận thức sẽ là một thứ, tự ngã là một thứ khác. Đây là một cách khác để hiểu làm thế nào nhận thức và tự ngã là những thứ khác nhau. Chừng nào tự ngã do tâm tạo đó còn tồn tại, thì một số nhận thức vẫn sinh khởi trong một người và những nhận thức khác chấm dứt. Đó cũng là một cách để hiểu làm thế nào nhận thức và tự ngã là những thứ khác nhau.”

“Thưa Ngài, con tin vào một tự ngã vô sắc được tạo thành từ nhận thức.”548

“Giả sử có một tự ngã vô sắc như vậy, Poṭṭhapāda. Trong trường hợp đó, nhận thức sẽ là một thứ, tự ngã là một thứ khác. Đây là một cách khác để hiểu làm thế nào nhận thức và tự ngã là những thứ khác nhau. Chừng nào tự ngã vô sắc đó còn tồn tại, thì một số nhận thức vẫn sinh khởi trong một người và những nhận thức khác chấm dứt. Đó cũng là một cách để hiểu làm thế nào nhận thức và tự ngã là những thứ khác nhau.”

“Nhưng, thưa Ngài, con có thể biết được liệu549 nhận thức có phải là tự ngã của một người, hay nhận thức và tự ngã là những thứ khác nhau không?”

“Điều này khó cho ông hiểu, vì ông có quan điểm, tín ngưỡng và niềm tin khác, trừ khi ông chuyên tâm thực hành dưới sự hướng dẫn của truyền thống.”550

“Vậy, nếu trường hợp là vậy, thưa Ngài, thì Ngài nghĩ sao về điều này: ‘Vũ trụ là vĩnh cửu. Đây là chân lý duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích’?”551

“Điều này Ta không tuyên bố, Poṭṭhapāda.”

“Vậy Ngài nghĩ sao về điều này: ‘Vũ trụ không vĩnh cửu. Đây là chân lý duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích’?”

“Điều này Ta cũng không tuyên bố.”

“Vậy Ngài nghĩ sao về điều này: ‘Vũ trụ là hữu hạn…’ … ‘Vũ trụ là vô hạn…’ … ‘Linh hồn và thể xác là một…’ … ‘Linh hồn và thể xác là khác nhau…’ … ‘Một bậc giác ngộ vẫn tồn tại sau khi chết…’ … ‘Một bậc giác ngộ không còn tồn tại sau khi chết…’ … ‘Một bậc giác ngộ vừa tồn tại vừa không còn tồn tại sau khi chết…’ … ‘Một Như Lai không tồn tại cũng không không tồn tại sau khi chết. Đây là chân lý duy nhất, mọi thứ khác đều vô ích’?”

“Điều này Ta cũng không tuyên bố.”

“Tại sao những điều này không được Thế Tôn tuyên bố?”

“Bởi vì chúng không lợi ích, không liên quan đến những nền tảng của đời sống tâm linh. Chúng không dẫn đến sự nhàm chán (nibbidā / sự chán ngán, không còn hứng thú với thế gian), ly tham (virāga / sự từ bỏ tham ái), diệt (nirodha / sự chấm dứt khổ đau), an tịnh (passaddhi / sự lắng dịu, bình yên), thắng trí (abhiññā / sự hiểu biết siêu việt, trực tiếp), giác ngộ (bodhi / sự tỉnh thức hoàn toàn), và Niết-bàn (nibbāna / sự dập tắt hoàn toàn mọi phiền não, khổ đau). Đó là lý do Ta không tuyên bố chúng.”

“Vậy điều gì đã được Thế Tôn tuyên bố?”

“Ta đã tuyên bố điều này: ‘Đây là khổ’ … ‘Đây là nguồn gốc của khổ’ … ‘Đây là sự diệt khổ’ … ‘Đây là con đường thực hành dẫn đến sự diệt khổ’.”

“Tại sao những điều này được Thế Tôn tuyên bố?”

“Bởi vì chúng lợi ích và liên quan đến những nền tảng của đời sống tâm linh. Chúng dẫn đến sự nhàm chán, ly tham, diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, và Niết-bàn. Đó là lý do Ta đã tuyên bố chúng.”

“Thật đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Thật đúng như vậy, Đấng Thiêng Liêng! Xin Ngài tùy nghi.” Rồi Thế Tôn đứng dậy từ chỗ ngồi và rời đi.

Ngay sau khi Thế Tôn rời đi, các du sĩ đó vây quanh Poṭṭhapāda từ mọi phía với những lời chế nhạo và giễu cợt.552 “Dù Sa-môn Gotama nói gì, Poṭṭhapāda cũng đồng ý với ngài ấy: ‘Thật đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Thật đúng như vậy, Đấng Thiêng Liêng!’ Chúng tôi hiểu rằng Sa-môn Gotama hoàn toàn không đưa ra lời dạy nhất quyết (categorical / khẳng định, dứt khoát) nào về việc vũ trụ có vĩnh cửu hay không, vân vân.”

Khi họ nói vậy, Poṭṭhapāda nói với họ: “Tôi cũng hiểu rằng Sa-môn Gotama hoàn toàn không đưa ra lời dạy nhất quyết nào về việc vũ trụ có vĩnh cửu hay không, vân vân. Tuy nhiên, pháp hành mà ngài ấy mô tả là chân thật, thực tế và chính xác. Đó là quy luật của các nguyên lý tự nhiên, sự bất biến của các nguyên lý tự nhiên. Vậy làm sao một người có hiểu biết như tôi lại không đồng ý rằng những gì Sa-môn Gotama đã nói hay lại không phải là nói hay?”

2. Về Citta Hatthisāriputta

Rồi sau hai ba ngày, Citta Hatthisāriputta và Poṭṭhapāda đến gặp Thế Tôn. Citta Hatthisāriputta đảnh lễ và ngồi xuống một bên.553 Nhưng du sĩ Poṭṭhapāda thì chào hỏi Thế Tôn, và sau khi những lời chào hỏi và chuyện trò lịch sự kết thúc, ông ngồi xuống một bên. Poṭṭhapāda kể lại cho Thế Tôn những gì đã xảy ra sau khi Ngài rời đi. Thế Tôn nói:

“Tất cả những du sĩ đó, Poṭṭhapāda, đều mù lòa và không có mắt. Chỉ có ông là người có mắt sáng. Vì Ta đã dạy và chỉ ra những lời dạy nhất quyết554 và cả những lời dạy không nhất quyết (not categorical / không khẳng định, không dứt khoát).

Và những lời dạy nào Ta đã dạy và chỉ ra là không nhất quyết? ‘Vũ trụ là vĩnh cửu’ … ‘Vũ trụ không vĩnh cửu’ … ‘Vũ trụ là hữu hạn’ … ‘Vũ trụ là vô hạn’ … ‘Linh hồn và thể xác là một’ … ‘Linh hồn và thể xác là khác nhau’ … ‘Một bậc giác ngộ vẫn tồn tại sau khi chết’ … ‘Một bậc giác ngộ không còn tồn tại sau khi chết’ … ‘Một bậc giác ngộ vừa tồn tại vừa không còn tồn tại sau khi chết’ … ‘Một Như Lai không tồn tại cũng không không tồn tại sau khi chết.’

Và tại sao Ta đã dạy và chỉ ra những lời dạy như vậy là không nhất quyết? Bởi vì những điều đó không lợi ích, không liên quan đến những nền tảng của đời sống tâm linh. Chúng không dẫn đến sự nhàm chán, ly tham, diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, và Niết-bàn. Đó là lý do Ta đã dạy và chỉ ra những lời dạy như vậy là không nhất quyết.

2.1. Những lời dạy nhất quyết

Và những lời dạy nào Ta đã dạy và chỉ ra là nhất quyết? ‘Đây là khổ’ … ‘Đây là nguồn gốc của khổ’ … ‘Đây là sự diệt khổ’ … ‘Đây là con đường thực hành dẫn đến sự diệt khổ’.

Và tại sao Ta đã dạy và chỉ ra những lời dạy như vậy là nhất quyết? Bởi vì chúng lợi ích và liên quan đến những nền tảng của đời sống tâm linh. Chúng dẫn đến sự nhàm chán, ly tham, diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, và Niết-bàn. Đó là lý do Ta đã dạy và chỉ ra những lời dạy như vậy là nhất quyết.

Có một số sa-môn và bà-la-môn có học thuyết và quan điểm này: ‘Tự ngã hoàn toàn hạnh phúc và không bệnh tật sau khi chết.’555 Ta đến gặp họ và nói: ‘Có thật sự đây là quan điểm của các vị tôn giả không?’556 Và họ trả lời: ‘Vâng.’ Ta nói với họ: ‘Nhưng các vị có thiền định để biết và thấy một thế giới hoàn toàn hạnh phúc không?’557 Được hỏi như vậy, họ nói: ‘Không.’

Ta nói với họ: ‘Nhưng các vị có từng nhận thức được một tự ngã hoàn toàn hạnh phúc trong một ngày hay một đêm, hay thậm chí nửa ngày hay nửa đêm không?’558 Được hỏi như vậy, họ nói: ‘Không.’

Ta nói với họ: ‘Nhưng các vị có biết một con đường và một pháp hành để hiện thực hóa một thế giới hoàn toàn hạnh phúc không?’559 Được hỏi như vậy, họ nói: ‘Không.’

Ta nói với họ: ‘Nhưng các vị có bao giờ nghe thấy tiếng của các vị trời tái sinh trong một thế giới hoàn toàn hạnh phúc nói rằng: “Hãy thực hành tốt, thưa quý vị, hãy thực hành chân thành để hiện thực hóa một thế giới hoàn toàn hạnh phúc.560 Vì đây là cách chúng tôi đã thực hành, và chúng tôi đã tái sinh trong một thế giới hoàn toàn hạnh phúc”?’ Được hỏi như vậy, họ nói: ‘Không.’

Ông nghĩ sao, Poṭṭhapāda? Như vậy, những gì họ nói có phải là không có cơ sở chứng minh không?”561

“Rõ ràng là như vậy, thưa Ngài.”

“Giả sử, Poṭṭhapāda, một người đàn ông nói: ‘Ai là người phụ nữ đẹp nhất xứ này, chính là người tôi muốn, người tôi khao khát!’562 Người ta sẽ nói với anh ta: ‘Này anh, người phụ nữ đẹp nhất xứ mà anh khao khát đó – anh có biết cô ấy thuộc dòng dõi quý tộc, bà-la-môn, nông dân, hay tiện dân không?’ Được hỏi như vậy, anh ta sẽ nói: ‘Không.’ Người ta sẽ nói với anh ta: ‘Này anh, người phụ nữ đẹp nhất xứ mà anh khao khát đó – anh có biết tên hay dòng họ của cô ấy không? Cô ấy cao, thấp, hay trung bình? Da cô ấy đen, nâu, hay vàng hoe? Cô ấy đến từ làng, thị trấn, hay thành phố nào?’ Được hỏi như vậy, anh ta sẽ nói: ‘Không.’ Người ta sẽ nói với anh ta: ‘Này anh, anh khao khát một người mà anh chưa từng biết hay thấy sao?’ Được hỏi như vậy, anh ta sẽ nói: ‘Vâng.’

Ông nghĩ sao, Poṭṭhapāda? Như vậy, lời nói của người đàn ông đó có phải là không có cơ sở chứng minh không?”

“Rõ ràng là như vậy, thưa Ngài.”

“Cũng vậy, các sa-môn và bà-la-môn có học thuyết và quan điểm đó…

Những gì họ nói có phải là không có cơ sở chứng minh không?”

“Rõ ràng là như vậy, thưa Ngài.”

“Giả sử một người đàn ông làm một cái thang ở ngã tư đường để trèo lên một ngôi nhà sàn dài.563 Người ta sẽ nói với anh ta: ‘Này anh, ngôi nhà sàn dài mà anh đang làm thang cho đó – anh có biết nó ở hướng bắc, nam, đông, hay tây không? Hay nó cao, thấp, hay trung bình?’ Được hỏi như vậy, anh ta sẽ nói: ‘Không.’ Người ta sẽ nói với anh ta: ‘Này anh, anh đang làm thang cho một ngôi nhà sàn mà anh chưa từng biết hay thấy sao?’ Được hỏi như vậy, anh ta sẽ nói: ‘Vâng.’

Ông nghĩ sao, Poṭṭhapāda? Như vậy, lời nói của người đàn ông đó có phải là không có cơ sở chứng minh không?”

“Rõ ràng là như vậy, thưa Ngài.”

“Cũng vậy, các sa-môn và bà-la-môn có những học thuyết và quan điểm khác nhau đó…

Những gì họ nói có phải là không có cơ sở chứng minh không?”

“Rõ ràng là như vậy, thưa Ngài.”

2.2. Ba loại tái sinh

“Poṭṭhapāda, có ba loại thân hữu (reincarnation in a life-form / sự hiện hữu của một dạng sống, sự tái sinh trong một dạng sống)564 này: thân hữu vật chất, thân hữu do tâm tạo, và thân hữu vô sắc.565 Và thân hữu vật chất là gì? Nó được hình thành, tạo thành từ bốn đại, và tiêu thụ thức ăn đặc. Thân hữu do tâm tạo là gì? Nó được hình thành, do tâm tạo, toàn vẹn các chi phần lớn nhỏ, không thiếu sót giác quan nào. Thân hữu vô sắc là gì? Nó vô sắc, được tạo thành từ nhận thức.

Ta dạy Pháp để từ bỏ thân hữu trong ba loại dạng sống này. ‘Khi các ông thực hành theo đó, các phẩm chất ô nhiễm sẽ được từ bỏ trong các ông và các phẩm chất thanh tịnh sẽ tăng trưởng. Các ông sẽ nhập và trú trong sự viên mãn và sung túc của trí tuệ (wisdom / paññā, sự hiểu biết đúng đắn), tự mình chứng ngộ điều đó ngay trong đời này.’ Poṭṭhapāda, ông có thể nghĩ: ‘Các phẩm chất ô nhiễm sẽ được từ bỏ và các phẩm chất thanh tịnh sẽ tăng trưởng. Người ta sẽ nhập và trú trong sự viên mãn và sung túc của trí tuệ, tự mình chứng ngộ điều đó ngay trong đời này. Nhưng một cuộc sống như vậy là khổ.’566 Nhưng ông không nên thấy như vậy. Các phẩm chất ô nhiễm sẽ được từ bỏ và các phẩm chất thanh tịnh sẽ tăng trưởng. Người ta sẽ nhập và trú trong sự viên mãn và sung túc của trí tuệ, tự mình chứng ngộ điều đó ngay trong đời này. Và sẽ chỉ có niềm vui và hạnh phúc, sự khinh an, tỉnh thức (mindfulness / sati, sự chú tâm, ghi nhớ không quên) và nhận biết rõ ràng. Một cuộc sống như vậy là an ổn.

Poṭṭhapāda, nếu người khác hỏi chúng ta: ‘Nhưng thưa các vị tôn giả, thân hữu vật chất mà các vị dạy để từ bỏ đó là gì?’ Chúng ta sẽ trả lời như thế này: ‘Đây chính là thân hữu vật chất đó.’

Nếu người khác hỏi chúng ta: ‘Nhưng thưa các vị tôn giả, thân hữu do tâm tạo đó là gì?’ Chúng ta sẽ trả lời như thế này: ‘Đây chính là thân hữu do tâm tạo đó.’567

Nếu người khác hỏi chúng ta: ‘Nhưng thưa các vị tôn giả, thân hữu vô sắc đó là gì?’ Chúng ta sẽ trả lời như thế này: ‘Đây chính là thân hữu vô sắc đó.’

Ông nghĩ sao, Poṭṭhapāda? Như vậy, lời nói đó có phải là có cơ sở chứng minh không?”

“Rõ ràng là như vậy, thưa Ngài.”

“Giả sử một người đàn ông làm một cái thang để trèo lên một ngôi nhà sàn dài ngay bên dưới ngôi nhà sàn đó. Người ta sẽ nói với anh ta: ‘Này anh, ngôi nhà sàn dài mà anh đang làm thang cho đó – anh có biết nó ở hướng bắc, nam, đông, hay tây không? Hay nó cao, thấp, hay trung bình?’ Anh ta sẽ nói: ‘Đây là ngôi nhà sàn dài mà tôi đang làm thang cho, ngay bên dưới nó.’

Ông nghĩ sao, Poṭṭhapāda? Như vậy, lời nói của người đàn ông đó có phải là có cơ sở chứng minh không?”

“Rõ ràng là như vậy, thưa Ngài.”

Khi Thế Tôn nói xong, Citta Hatthisāriputta thưa: “Bạch Thế Tôn, khi tái sinh trong thân hữu vật chất, thì thân hữu do tâm tạo và thân hữu vô sắc có phải là hư cấu,568 và chỉ có thân hữu vật chất là thật không? Khi tái sinh trong thân hữu do tâm tạo, thì thân hữu vật chất và thân hữu vô sắc có phải là hư cấu, và chỉ có thân hữu do tâm tạo là thật không? Khi tái sinh trong thân hữu vô sắc, thì thân hữu vật chất và thân hữu do tâm tạo có phải là hư cấu, và chỉ có thân hữu vô sắc là thật không?”

“Khi tái sinh trong thân hữu vật chất, nó không được gọi là thân hữu do tâm tạo hay thân hữu vô sắc,569 mà chỉ được gọi là thân hữu vật chất. Khi tái sinh trong thân hữu do tâm tạo, nó không được gọi là thân hữu vật chất hay thân hữu vô sắc, mà chỉ được gọi là thân hữu do tâm tạo. Khi tái sinh trong thân hữu vô sắc, nó không được gọi là thân hữu vật chất hay thân hữu do tâm tạo, mà chỉ được gọi là thân hữu vô sắc.

Này Citta, giả sử người ta hỏi ông: ‘Ông có tồn tại trong quá khứ không?570 Ông sẽ tồn tại trong tương lai không? Ông có tồn tại bây giờ không?’ Ông sẽ trả lời thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con điều này, con sẽ trả lời như sau: ‘Con đã tồn tại trong quá khứ. Con sẽ tồn tại trong tương lai. Con đang tồn tại bây giờ.’ Con sẽ trả lời như vậy.”

“Nhưng Citta, giả sử người ta hỏi ông: ‘Thân hữu mà ông có trong quá khứ có phải là thân hữu thật duy nhất của ông, còn những thân hữu của tương lai và hiện tại là hư cấu không? Thân hữu mà ông sẽ có trong tương lai có phải là thân hữu thật duy nhất của ông, còn những thân hữu của quá khứ và hiện tại là hư cấu không? Thân hữu mà ông có bây giờ có phải là thân hữu thật duy nhất của ông, còn những thân hữu của quá khứ và tương lai là hư cấu không?’ Ông sẽ trả lời thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con điều này, con sẽ trả lời như sau: ‘Thân hữu con có trong quá khứ là thật vào thời điểm đó, còn những thân hữu của tương lai và hiện tại là hư cấu. Thân hữu con sẽ có trong tương lai sẽ là thật vào thời điểm đó, còn những thân hữu của quá khứ và hiện tại là hư cấu. Thân hữu con có bây giờ là thật vào thời điểm này, còn những thân hữu của quá khứ và tương lai là hư cấu.’ Con sẽ trả lời như vậy.”

“Cũng vậy, khi ở trong bất kỳ một trong ba loại thân hữu nào, nó không được gọi bằng tên của hai loại kia, mà chỉ được gọi bằng tên riêng của nó.

Từ bò sữa ra sữa, từ sữa ra sữa đông, từ sữa đông ra bơ, từ bơ ra bơ tinh luyện (ghee), và từ bơ tinh luyện ra phần tinh túy nhất của bơ tinh luyện (cream of ghee). Và phần tinh túy nhất của bơ tinh luyện được cho là tốt nhất trong số này.571 Khi là sữa, nó không được gọi là sữa đông, bơ, bơ tinh luyện, hay phần tinh túy nhất của bơ tinh luyện. Nó chỉ được gọi là sữa. Khi là sữa đông, bơ, bơ tinh luyện, hay phần tinh túy nhất của bơ tinh luyện, nó không được gọi bằng bất cứ tên nào khác, mà chỉ được gọi bằng tên riêng của nó. Cũng vậy, khi ở trong bất kỳ một trong ba loại thân hữu nào, nó không được gọi bằng tên của hai loại kia, mà chỉ được gọi bằng tên riêng của nó. Đây là những cách dùng, thuật ngữ, phương tiện giao tiếp, và mô tả phổ biến của thế gian, mà Như Lai sử dụng để giao tiếp mà không bị chấp trước vào chúng.”572

Khi Ngài nói xong, du sĩ Poṭṭhapāda thưa với Thế Tôn: “Thật tuyệt vời, thưa Ngài! Tuyệt vời! Như người lật ngửa cái bị úp, hay phơi bày cái bị che giấu, hay chỉ đường cho người lạc lối, hay thắp đèn trong bóng tối để người có mắt sáng có thể thấy những gì ở đó, Thế Tôn cũng đã làm sáng tỏ giáo pháp bằng nhiều cách. Con xin quy y Phật, quy y Pháp, và quy y Tăng đoàn tỷ-kheo. Từ hôm nay, xin Thế Tôn ghi nhớ con là một người cư sĩ đã quy y trọn đời.”

2.3. Sự xuất gia của Citta Hatthisāriputta

Nhưng Citta Hatthisāriputta thưa với Thế Tôn: “Thật tuyệt vời, thưa Ngài! Tuyệt vời! Như người lật ngửa cái bị úp, hay phơi bày cái bị che giấu, hay chỉ đường cho người lạc lối, hay thắp đèn trong bóng tối để người có mắt sáng có thể thấy những gì ở đó, Thế Tôn cũng đã làm sáng tỏ giáo pháp bằng nhiều cách. Con xin quy y Phật, quy y Pháp, và quy y Tăng đoàn tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, con có thể được xuất gia (going forth / pabbajjā, từ bỏ đời sống thế tục để tu hành), được thọ cụ túc giới (ordination / upasampadā, lễ tấn phong chính thức thành tỳ kheo/tỳ kheo ni) trước sự hiện diện của Thế Tôn không?”

Và Citta Hatthisāriputta đã được xuất gia, thọ cụ túc giới trước sự hiện diện của Thế Tôn. Không lâu sau khi thọ giới, Tôn giả Citta Hatthisāriputta, sống một mình, ẩn dật, siêng năng (diligent / ātāpī, nỗ lực, tinh cần), nhiệt tâm, và quyết chí, chẳng bao lâu đã chứng ngộ mục đích tối thượng của đời sống tâm linh ngay trong đời này. Ngài sống, tự mình chứng ngộ mục tiêu mà các thiện nam tử chân chính từ bỏ đời sống thế tục để sống đời không nhà.573 Ngài hiểu rõ: “Sanh đã tận; đời sống tâm linh đã hoàn thành; những gì cần làm đã làm xong; không còn gì nữa ở nơi này.” Và Tôn giả Citta Hatthisāriputta trở thành một trong những bậc A-la-hán.