22. Kinh Đại Niệm Xứ
Mahāsatipaṭṭhānasutta
Như vầy tôi nghe. 844 Một thời Thế Tôn trú ở xứ Kuru, tại một thị trấn của xứ Kuru tên là Kammāsadamma. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ kheo: "Này các Tỷ kheo!"
"Bạch Thế Tôn," các Tỷ kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
"Này các Tỷ kheo, đây là con đường độc nhất, để thanh tịnh chúng sanh, để vượt qua sầu bi, để diệt trừ khổ ưu, để chứng ngộ chánh đạo, và để chứng ngộ Niết Bàn (extinguishment / sựดับ tắt, sự giải thoát cuối cùng). 845 Đó là bốn niệm xứ (the four kinds of mindfulness meditation / bốn cơ sở để thiết lập chánh niệm).
Bốn niệm xứ là gì? Đó là khi một Tỷ kheo quán thân trên thân—nhiệt tâm (keen / tinh cần, nỗ lực), tỉnh giác (aware / biết rõ, nhận biết rõ ràng), nhận biết tỉnh thức, nhiếp phục tham ưu (covetousness and displeasure / sự tham ái và phiền muộn) ở đời. 846 Vị ấy quán thọ trên các cảm thọ—nhiệt tâm, tỉnh giác, nhận biết tỉnh thức, nhiếp phục tham ưu ở đời. 847 Vị ấy quán tâm trên tâm—nhiệt tâm, tỉnh giác, nhận biết tỉnh thức, nhiếp phục tham ưu ở đời. 848 Vị ấy quán pháp trên các pháp—nhiệt tâm, tỉnh giác, nhận biết tỉnh thức, nhiếp phục tham ưu ở đời. 849
1. Quan sát Thân
1.1. Theo dõi Hơi thở
Và này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo quán thân trên thân ( observing an aspect of the body/ quan sát một phương diện cơ thể)?
Ở đây, Tỷ kheo—đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống—ngồi kiết già, lưng giữ thẳng, và an trú (establishes / thiết lập, giữ vững) nhận biết tỉnh thức trước mặt. 850 Hoàn toàn nhận biết và tỉnh thức, vị ấy thở vào. Nhận biết và tỉnh thức, vị ấy thở ra. 851
Khi thở vào dài, vị ấy biết: 'Tôi thở vào dài.' Khi thở ra dài, vị ấy biết: 'Tôi thở ra dài.' 852
Khi thở vào ngắn, vị ấy biết: 'Tôi thở vào ngắn.' Khi thở ra ngắn, vị ấy biết: 'Tôi thở ra ngắn.' 853
Vị ấy tập: 'Cảm nhận toàn thân, tôi sẽ thở vào.' Vị ấy tập: 'Cảm nhận toàn thân, tôi sẽ thở ra.' 854
Vị ấy tập: 'An tịnh thân hành (physical process / các hoạt động thuộc về thân, ở đây là hơi thở), tôi sẽ thở vào.' Vị ấy tập: 'An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra.' 855
Ví như người thợ tiện tài giỏi hay người học việc, khi tiện một đường dài, biết: 'Tôi tiện một đường dài,' hay khi tiện một đường ngắn, biết: 'Tôi tiện một đường ngắn.' 856
Như vậy, vị ấy quan sát một phương diện cơ thể bên trong, hay quan sát một phương diện cơ thể bên ngoài, hay cả bên trong và bên ngoài. 857 Vị ấy quan sát các hiện tượng sinh ra trên cơ thể, hay quan sát các hiện tượng biến mất trên cơ thể, hay quan sát các hiện tượng sinh-mất trên cơ thể. 858 Chánh niệm của vị ấy được thiết lập bằng sự nhận biết cơ thể ( mindfulness is established that the body exists/ chánh niệm được thiết lập dựa trên sự hiện hữu của thân thể), đủ cho sự phát sinh chánh trí, chánh niệm (to the extent necessary for knowledge and mindfulness / để mở rộng cho sự hiểu biết và chánh niệm). Vị ấy sống tự tại, (meditate independent/ thiền độc lập) không phụ thuộc một vật gì trên đời. (not grasping at anything in the world). 859
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán thân trên thân là như vậy.
1.2. Các Tư thế
Lại nữa, này các Tỷ kheo, khi đi, Tỷ kheo biết: 'Tôi đang đi.' Khi đứng, vị ấy biết: 'Tôi đang đứng.' Khi ngồi, vị ấy biết: 'Tôi đang ngồi.' Khi nằm, vị ấy biết: 'Tôi đang nằm.' 860 Thân thể được duy trì trong tư thế nào, vị ấy biết thân trong tư thế ấy.
Như vậy, vị ấy quan sát một phương diện cơ thể bên trong, hay quan sát một phương diện cơ thể bên ngoài, hay cả bên trong và bên ngoài. Vị ấy quan sát các hiện tượng sinh ra trên cơ thể, hay quan sát các hiện tượng biến mất trên cơ thể, hay quan sát các hiện tượng sinh-mất trên cơ thể. Chánh niệm của vị ấy được thiết lập bằng sự nhận biết cơ thể, đủ cho sự phát sinh chánh trí, chánh niệm. Vị ấy sống tự tại, không phụ thuộc một vật gì trên đời.
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán thân trên thân cũng là như vậy.
1.3. Tỉnh giác trong Hành động
Lại nữa, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo hành động với sự tỉnh giác khi đi tới và đi lui; khi nhìn thẳng và nhìn quanh; khi co tay và duỗi tay; khi mang y tăng-già-lê, bát và các y khác; khi ăn, uống, nhai, nếm; khi đại tiện và tiểu tiện; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng. 861
Như vậy, vị ấy quán thân trên thân ở bên trong ...
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán thân trên thân cũng là như vậy.
1.4. Tính Bất tịnh
Lại nữa, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán sát chính thân này, từ lòng bàn chân trở lên, từ ngọn tóc trở xuống, bao bọc bởi da, và đầy những thứ bất tịnh (filth / sự không trong sạch, dơ bẩn) sai biệt. 862 'Trong thân này có: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy xương, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, thức ăn chưa tiêu, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước bọt, nước mũi, dịch khớp, nước tiểu.' 863
Ví như một cái bao có hai miệng, đựng đầy các loại hạt khác nhau, như gạo tẻ, lúa mì, đậu xanh, đậu Hà Lan, mè, và gạo lức. Và một người có mắt sáng mở bao ra xem xét: 'Đây là gạo tẻ, đây là lúa mì, đây là đậu xanh, đây là đậu Hà Lan, đây là mè, và đây là gạo lức.' 864
Như vậy, vị ấy quán thân trên thân ở bên trong ...
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán thân trên thân cũng là như vậy.
1.5. Các Yếu tố (Giới)
Lại nữa, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán sát chính thân này, dù ở tư thế nào, dù được đặt như thế nào, theo các yếu tố (elements / giới, các thành phần cơ bản cấu tạo nên vật chất): 865 'Trong thân này có: yếu tố đất, yếu tố nước, yếu tố lửa, và yếu tố gió.' 866
Ví như một người đồ tể khéo léo hay người học việc của đồ tể giết một con bò rồi ngồi ở ngã tư đường, xẻ thịt ra từng phần. 867
Như vậy, vị ấy quán thân trên thân ở bên trong ...
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán thân trên thân cũng là như vậy.
1.6. Tử thi ở Nghĩa địa
Lại nữa, này các Tỷ kheo, ví như Tỷ kheo thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa. Và nó đã chết một ngày, hai ngày, hay ba ngày, sình trương, xanh tím, và rữa nát. 868 Vị ấy so sánh với chính thân này: 869 'Thân này cũng có cùng bản chất như vậy, cùng loại như vậy, và không thể vượt qua trạng thái đó.' Như vậy, vị ấy quán thân trên thân ở bên trong ...
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán thân trên thân cũng là như vậy.
Lại nữa, ví như vị ấy thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, bị quạ, diều hâu, kên kên, cò, chó, cọp, beo, chó rừng, và nhiều loại sinh vật nhỏ khác ăn thịt. Vị ấy so sánh với chính thân này: 'Thân này cũng có cùng bản chất như vậy, cùng loại như vậy, và không thể vượt qua trạng thái đó.' Như vậy, vị ấy quán thân trên thân ở bên trong ...
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán thân trên thân cũng là như vậy.
Lại nữa, ví như vị ấy thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, một bộ xương còn dính thịt và máu, được giữ lại với nhau bằng gân ...
Một bộ xương không còn thịt nhưng dính máu, và được giữ lại với nhau bằng gân ...
Một bộ xương không còn thịt và máu, được giữ lại với nhau bằng gân ...
Những khúc xương không còn gân, vương vãi khắp nơi. Đây là xương tay, kia là xương chân, đây là xương mắt cá, kia là xương ống chân, đây là xương đùi, kia là xương hông, đây là xương sườn, kia là xương sống, đây là xương cánh tay, kia là xương cổ, đây là xương hàm, kia là răng, đây là xương sọ. ...
Những khúc xương trắng, màu như vỏ ốc ...
Những khúc xương mục nát, chất thành đống ...
Những khúc xương thối rữa và tan thành bột. 870 Vị ấy so sánh với chính thân này: 'Thân này cũng có cùng bản chất như vậy, cùng loại như vậy, và không thể vượt qua trạng thái đó.'
Như vậy, vị ấy quan sát một phương diện cơ thể bên trong, hay quan sát một phương diện cơ thể bên ngoài, hay cả bên trong và bên ngoài. Vị ấy quan sát các hiện tượng sinh ra trên cơ thể, hay quan sát các hiện tượng biến mất trên cơ thể, hay quan sát các hiện tượng sinh-mất trên cơ thể. Chánh niệm của vị ấy được thiết lập bằng sự nhận biết cơ thể, đủ cho sự phát sinh chánh trí, chánh niệm. Vị ấy sống tự tại, không phụ thuộc một vật gì trên đời.
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán thân trên thân cũng là như vậy.
2. Quan sát Cảm Giác
Và này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo quán thọ trên các thọ? 871 (meditate observing an aspect of feelings/ quan sát một phương diện cảm giác)
Ở đây, này các Tỷ kheo, khi thấy một cảm giác dễ chịu (pleasant feeling / cảm giác thoải mái, vui thích), Tỷ kheo biết: 'Tôi có một cảm giác dễ chịu.' 872
Khi thấy một cảm giác khó chịu (painful feeling / cảm giác đau đớn, không thoải mái), vị ấy biết: 'Tôi có một cảm giác khó chịu.'
Khi cảm giác một cảm giác trung tính (neutral feeling / cảm giác không dễ chịu cũng không khó chịu), vị ấy biết: 'Tôi có một cảm giác trung tính.'
Khi thấy một cảm giác dễ chịu thuộc về vật chất (of the flesh / liên quan đến thân thể, vật lý), vị ấy biết: 'Tôi có một cảm giác dễ chịu thuộc về vật chất.' 873
Khi thấy một cảm giác dễ chịu không thuộc về vật chất (not of the flesh / không liên quan đến thân thể, thuộc về tinh thần), vị ấy biết: 'Tôi có một cảm giác dễ chịu không thuộc về vật chất.' 874
Khi thấy một cảm giác khó chịu thuộc về vật chất, vị ấy biết: 'Tôi có một cảm giác khó chịu thuộc về vật chất.'
Khi thấy một cảm giác khó chịu không thuộc về vật chất, vị ấy biết: 'Tôi có một cảm giác khó chịu không thuộc về vật chất.' 875
Khi thấy một cảm giác trung tính thuộc về vật chất, vị ấy biết: 'Tôi có một cảm giác trung tính thuộc về vật chất.'
Khi cảm giác một cảm giác trung tính không thuộc về vật chất, vị ấy biết: 'Tôi có một cảm giác trung tính không thuộc về vật chất.' 876
Như vậy, vị ấy quan sát một phương diện cảm giác bên trong, hay quan sát một phương diện cảm giác bên ngoài, hay cả ở trong và ngoài. Vị ấy quan sát hiện tượng cảm giác được sinh ra, hay quan sát hiện tượng cảm giác bị biến mất, hay quan sát hiện tượng cảm giác sinh-mât của cảm giác. Chánh niệm của vị ấy được thiết lập bằng sự nhận biết cảm giác, đủ cho sự phát sinh chánh trí, chánh niệm. Vị ấy sống tự tại, không phụ thuộc một vật gì trên đời.
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán thọ trên các cảm thọ là như vậy.
3. Quan sát Tâm (Mind/Tâm trí)
Tâm (mind / tâm trí) trong các đoạn văn phù hợp với chữ "trạng thái tâm lý" hay đầy đủ hơn là "nhận diện trạng thái tâm lý hiện tại"
Và này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo quán tâm trên tâm (Observing an aspect of the mind/ quan sát trạng thái tâm lý)?
Ở đây, Tỷ kheo biết trạng thái tâm lý đang bị lòng tham chi phối (greed / lòng ham muốn) là 'tâm có tham,' 877 và trạng thái tâm lý không bị lòng tham chi phối là 'tâm không có tham.'
Vị ấy biết trạng thái tâm lý đang bị giận dữ (sân) chi phối (hate / lòng căm ghét, thù hận) là 'tâm có sân,' và trạng thái tâm lý không bị giận dữ chi phối là 'tâm không có sân.'
Vị ấy biết trạng thái tâm lý đang bị si chi phối (delusion / sự mê muội, không sáng suốt) là 'tâm có si,' và trạng thái tâm lý đang bị si chi phối là 'tâm không có si.'
Vị ấy biết trạng thái tâm lý bị co rút (constricted mind / tâm bị thu hẹp, không linh hoạt) là 'tâm co rút,' 878 và tâm tán loạn (scattered mind / tâm phân tán, không tập trung) là 'tâm tán loạn.'
Vị ấy biết trạng thái tâm lý quảng đại (expansive mind / tâm rộng lớn, phát triển) là 'tâm quảng đại,' 879 và trạng thái tâm lý không quảng đại (unexpansive mind / tâm không rộng lớn, hạn hẹp) là 'tâm không quảng đại.'
Vị ấy biết trạng thái tâm lý hữu thượng (mind that is not supreme / tâm còn có cái cao hơn) là 'tâm hữu thượng,' và trạng thái tâm lý vô thượng (mind that is supreme / tâm không còn gì cao hơn, tâm tối thượng) là 'tâm vô thượng.'
Vị ấy biết trạng thái tâm lý tập trung cao độ (có định) (mind immersed in samādhi / tâm tập trung, an trú trong thiền định) là 'tâm có định,' và trạng thái tâm lý không tập trung cao độ (không có định) (mind not immersed in samādhi / tâm không tập trung, không an trú trong thiền định) là 'tâm không có định.'
Vị ấy biết trạng thái tâm lý giải thoát (freed mind / tâm đã thoát khỏi ràng buộc) là 'tâm giải thoát,' và trạng thái tâm lý không giải thoát (unfreed mind / tâm chưa thoát khỏi ràng buộc) là 'tâm không giải thoát.'
Như vậy, vị ấy quan sát trạng thái tâm lý bên trong, hay quan sát trạng thái tâm lý bên ngoài, hay cả ở trong và ngoài. Vị ấy quan sát trạng thái tâm lý được sinh ra, hay quan sát trạng thái tâm lý bị biến mất, hay quan sát sự sinh-mât của trạng thái tâm lý. Chánh niệm của vị ấy được thiết lập bằng sự quan sát trạng thái tâm lý, đủ cho sự phát sinh chánh trí, chánh niệm. Vị ấy sống tự tại, không phụ thuộc một vật gì trên đời.
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán tâm trên tâm là như vậy.
4. Quan sát Pháp
Pháp (principles / nguyên tắc) trong các đoạn văn phù hợp với chữ "quy trình" hay đầy đủ hơn là "nhận diện vấn đề hiểu cách nó sinh-diệt và cách giải thoát khỏi nó"
4.1. Năm Triền Cái
Và này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo quán pháp trên các pháp với năm triều cái?
Ở đây, Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái (hindrances / năm chướng ngại ngăn cản sự tiến bộ tâm lý). 880 Và này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái?
Ở đây, Tỷ kheo khi trong vị ấy có tham dục (sensual desire / ham muốn giác quan), vị ấy biết: 'Trong tôi có tham dục.'. Không có tham dục, vị ấy biết: 'Trong tôi không có tham dục.' Vị ấy biết cách thức( how / như thế nào) tham dục chưa sinh, được sinh ra như thế nào; tham dục đã sinh được đoạn trừ như thế nào; và tham dục đã được đoạn trừ, trong tương lai không sinh trở lại như thế nào. 881
Khi trong vị ấy có tức giận (anger / sân hận), vị ấy biết: 'Trong tôi có tức giận.' Không có tức giận, vị ấy biết: 'Trong tôi không có tức giận.' Vị ấy biết cách thứcctức giận chưa sinh, được sinh như thế nào; tức giận đã sinh, được đoạn trừ như thế nào; và tức giận đã được đoạn trừ, trong tương lai không sinh trở lại như thế nào.
Khi trong vị ấy có tâm trí đờ đẫn và buồn ngủ (hôn trầm thùy miên), vị ấy biết: 'Trong tôi có tâm trí đờ đẫn và buồn ngủ.' Khi trong vị ấy không có tâm trí đờ đẫn và buồn ngủ, vị ấy biết: 'Trong tôi không có tâm trí đờ đẫn và buồn ngủ.' Vị ấy biết cách thức tâm trí đờ đẫn và buồn ngủ chưa sinh, được sinh ra như thế nào; tâm trí đờ đẫn và buồn ngủ đã sinh, được đoạn trừ như thế nào; và tâm trí đờ đẫn và buồn ngủ đã được đoạn trừ, trong tương lai không sinh trở lại như thế nào. 882
Khi trong vị ấy có tâm bất an và hối tiếc (trạo cử hối quá), vị ấy biết: 'Trong tôi có tâm bất an và hối tiếc.' Khi trong vị ấy không có tâm bất an và hối tiếc, vị ấy biết: 'Trong tôi không có tâm bất an và hối tiếc.' Vị ấy biết cách thức tâm bất an và hối tiếc chưa sinh, được sinh ra như thế nào; tâm bất an và hối tiếc đã sinh, được đoạn trừ như thế nào; và tâm bất an và hối tiếc đã được đoạn trừ, trong tương lai không sinh trở lại như thế nào.
Khi trong vị ấy có nghi ngờ (doubt / sự hoài nghi, thiếu niềm tin vững chắc), vị ấy biết: 'Trong tôi có nghi ngờ.' Khi trong vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy biết: 'Trong tôi không có nghi ngờ.' Vị ấy biết cách thức nghi ngờ chưa sinh, được sinh ra như thế nào; nghi ngờ đã sinh, được đoạn trừ như thế nào; và nghi ngờ đã được đoạn trừ, trong tương lai không sinh trở lại như thế nào.
Như vậy, vị ấy quan sát năm triền cái ở bên trong, hay quan sát các năm triền cái ở bên ngoài, hay cả ở bên trong và ngoài. Vị ấy quan sát cách thức triền cái sinh ra, hay quan sát cách thức triền cái biến mất, hay quan sát tiến trình sanh-mất của năm triền cái. Chánh niệm của vị ấy được thiết lập bằng quan sát năm triền cái (mindfulness is established that principles exist/ chánh niệm được xây dựng dựa trên sự có mặt của các nguyên lý), đủ cho sự phát sinh chánh trí, chánh niệm. Vị ấy sống tự tại, không phụ thuộc một vật gì trên đời.
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái là như vậy.
4.2. Thủ Uẩn
Uẩn là tập hợp. Con người được tạo từ 5 uẩn là cơ thể, cảm giác, nhận thức, hành động, thức (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
Lại nữa, Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn (grasping aggregates / tập hợp của năm thủ uẩn mà con người nghĩ là cái 'tôi'). Và này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn?
Ở đây, Tỷ kheo quán: 'Đây là sắc (form / hình thể, vật chất), đây là nguồn gốc của sắc, đây là sự hoại tận của sắc (such is the origin of form, such is the ending of form). 883 Đây là thọ (feeling / cảm giác), đây là nguồn gốc của thọ, đây là sự hoại tận của thọ. Đây là nhận thức (perceptions / tưởng, nhận biết-phân biệt và gắn nhãn), đây là nguồn gốc của nhận thức, đây là sự hoại tận của nhận thức. 884 Đây là hành (choices / các hoạt động của ý chí, sự tạo tác), đây là nguồn gốc của hành, đây là sự hoại tận của hành. 885 Đây là thức (consciousness / sự nhận biết của tâm), đây là nguồn gốc của thức, đây là sự hoại tận của thức.' Như vậy, vị ấy quán pháp trên các pháp ở nội phần ...
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn là như vậy.
4.3. Lĩnh vưc Giác quan (Xứ)
Hơn nữa, một Tỷ kheo quán pháp trên các pháp với sáu xứ (sense fields / các lĩnh vực của giác quan) trong và ngoài. Và làm thế nào một Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với sáu xứ trong và ngoài?
Đó là khi một Tỷ kheo hiểu rõ về quan hệ của mắt, các hình ảnh, và mối ràng buộc (fetter / kiết sử, sự trói buộc) phát sinh từ hai điều này. Họ hiểu cách thức kiết sử chưa sinh, được sinh ra; cách thức kiết sử đã sinh bị tiêu diệt; và cách thức kiết sử đã bị tiêu diệt không phát sinh trở lại trong tương lai.[^886]
Họ hiểu về tai, các âm thanh, và kiết sử...
Họ hiểu về mũi, các mùi hương, và kiết sử...
Họ hiểu về lưỡi, các vị, và kiết sử...
Họ hiểu về thân, các xúc chạm, và kiết sử...
Họ hiểu về ý, các pháp, và kiết sử phát sinh phụ thuộc vào cả hai. Họ hiểu cách thức kiết sử chưa sinh, được sinh ra; cách thức kiết sử đã sinh bị tiêu diệt; và cách thức kiết sử đã bị tiêu diệt không phát sinh trở lại trong tương lai
Và cứ như thế, họ quan sát các Xứ ở bên trong...
Đó là cách một Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với sáu xứ trong và ngoài.
4.4. Các Giác Chi (Awakening Factors/ Năng Lực Giác Ngộ)
Lại nữa, Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với bảy giác chi (awakening factors / các năng lực đặc biệt phát sinh khi tu tập). 887 Và này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với bảy giác chi?
Ở đây, Tỷ kheo khi trong vị ấy có niệm giác chi (awakening factor of mindfulness / năng lực tỉnh thức, sự nhận biết tỉnh thức), vị ấy biết: 'Trong tôi có niệm giác chi.' Khi trong vị ấy không có niệm giác chi, vị ấy biết: 'Trong tôi không có niệm giác chi.' Vị ấy biết niệm giác chi chưa sinh nay được sinh ra như thế nào; và niệm giác chi đã sanh khởi nay được tu tập viên mãn như thế nào. 888
Khi trong vị ấy có trạch pháp giác chi (awakening factor of investigation of principles / năng lực phân biệt, phân tích các pháp) ... tấn giác chi (awakening factor of energy / năng lực siêng năng, nỗ lực) ... hỷ giác chi (awakening factor of rapture / năng lực niềm vui) ... khinh an giác chi (awakening factor of tranquility / năng lực yên ổn của thân và tâm) ... định giác chi (awakening factor of immersion / năng lực tập trung tâm ý) ... xả giác chi (awakening factor of equanimity / năng lực bình thản, không thiên vị) trong vị ấy, vị ấy biết: 'Trong tôi có xả giác chi.' Khi trong vị ấy không có xả giác chi, vị ấy biết: 'Trong tôi không có xả giác chi.' Vị ấy biết xả giác chi chưa sinh nay được sinh ra như thế nào; và xả giác chi đã sanh khởi nay được tu tập viên mãn như thế nào.
Như vậy, vị ấy quan sát các năng lực giác ngộ ở bên trong, hay quan sát các năng lực giác ngộ ở bên ngoài, hay quan sát các năng lực giác ngộ ở trong và ngoài. Vị ấy quan sát các năng lực giác ngộ sanh khởi, hay quan sát các năng lực giác ngộ diệt tận, hay quan sát các năng lực giác ngộ sanh diệt. Hay chánh niệm của vị ấy được thiết lập với năng lực giác ngộ, đủ để phát sinh chánh trí và chánh niệm. Vị ấy sống tự tại, không nắm giữ bất cứ gì ở đời. ??
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với bảy giác chi là như vậy.
4.5. Bốn Thánh Đế
Lại nữa, Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với bốn Thánh đế (noble truths / bốn sự thật cao quý). 890 Và này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với bốn Thánh đế?
Ở đây, Tỷ kheo như thật biết: 'Đây là Khổ (suffering / sự đau khổ, khôngสมปรารถนา)' ... 'Đây là Khổ tập (origin of suffering / nguyên nhân của đau khổ)' ... 'Đây là Khổ diệt (cessation of suffering / sự chấm dứt đau khổ)' ... 'Đây là Đạo đế (practice that leads to the cessation of suffering / con đường đưa đến sự chấm dứt đau khổ).'
Kết thúc phần tụng đọc thứ nhất.
4.5.1. Khổ là gì (Khổ Thánh đế)
Và này các Tỷ kheo, thế nào là Khổ Thánh đế? 891 Sanh là khổ; già là khổ; chết là khổ; sầu, bi, khổ, ưu, và não là khổ; gặp gỡ điều mình không thích là khổ; chia lìa điều mình yêu thích là khổ; mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.
Và sanh là gì? Sự sanh, sự khởi đầu, sự thụ thai, sự tái sanh, sự biểu hiện của các uẩn, và sự có được các xứ của các chúng sanh khác nhau trong các cảnh giới chúng sanh khác nhau.^892 Đây được gọi là sanh.
Và già là gì? Sự già nua, suy yếu, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, sinh lực suy giảm, và các căn suy tàn của các chúng sanh khác nhau trong các cảnh giới chúng sanh khác nhau. Đây được gọi là già.
Và chết là gì? Sự qua đời, từ trần, tan rã, hoại diệt, sự chết, mệnh chung, sự tan rã của các uẩn, sự đặt thi thể xuống, và sự cắt đứt của mạng căn của các chúng sanh khác nhau trong các cảnh giới chúng sanh khác nhau. Đây được gọi là chết.
Và sầu là gì? Sự sầu muộn, buồn rầu, trạng thái sầu muộn, nỗi sầu bên trong, nỗi sầu sâu thẳm bên trong của người đã trải qua bất hạnh, đã nếm trải khổ đau.^893 Đây được gọi là sầu.
Và bi là gì? Tiếng than, lời than, sự than khóc, sự than vãn, trạng thái than khóc và than vãn của người đã trải qua bất hạnh, đã nếm trải khổ đau. Đây được gọi là bi.
Và khổ là gì? Nỗi đau thể xác, sự khó chịu về thể xác, cảm giác đau đớn, khó chịu sanh ra từ sự tiếp xúc của thân.^894 Đây được gọi là khổ.
Và ưu là gì?^895 Nỗi đau tinh thần, sự không hài lòng về tinh thần, cảm giác đau đớn, khó chịu sanh ra từ sự tiếp xúc của ý. Đây được gọi là ưu.
Và não là gì? Sự căng thẳng, phiền não, trạng thái căng thẳng và phiền não của người đã trải qua bất hạnh, đã nếm trải khổ đau. Đây được gọi là não.
Và 'gặp gỡ điều mình không thích là khổ' có nghĩa là gì? Có những hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị, xúc chạm, và ý niệm không thể ưa, không đáng mong muốn, và khó chịu. Và có những người muốn làm hại, gây thương tích, quấy rầy, và đe dọa bạn. Sự gặp gỡ, kết hợp, bao gồm, hòa lẫn với những điều này: đó là ý nghĩa của 'gặp gỡ điều mình không thích là khổ'.
Và 'chia lìa điều mình yêu thích là khổ' có nghĩa là gì? Có những hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị, xúc chạm, và ý niệm đáng ưa, đáng mong muốn, và dễ chịu. Và có những người muốn mang lại lợi ích, giúp đỡ, an ủi, và bảo vệ bạn: cha và mẹ, anh và chị, bạn bè và đồng nghiệp, bà con và họ hàng. Sự chia cắt khỏi những điều này, sự mất kết nối, sự tách biệt, và sự xa lìa khỏi chúng:^896 đó là ý nghĩa của 'chia lìa điều mình yêu thích là khổ'.
Và 'mong muốn mà không được là khổ' (cầu bất đắc) có nghĩa là gì? Nơi các chúng sanh phải chịu tái sanh, một mong muốn như vậy nảy sinh: 'Ôi, giá như chúng ta không phải chịu tái sanh! Giá như sự tái sanh không đến với chúng ta!'^897 Nhưng điều mong ước không thể có được. Đây là ý nghĩa của 'mong muốn mà không được là khổ.' Nơi các chúng sanh phải chịu già ... bệnh ... chết ... trải qua sầu, bi, khổ, ưu, và não, một mong muốn như vậy nảy sinh: 'Ôi, giá như chúng ta không phải trải qua sầu, bi, khổ, ưu, và não! Giá như sầu, bi, khổ, ưu, và não không đến với chúng ta!' Nhưng bạn không thể có được điều đó bằng cách mong ước. Đây là ý nghĩa của 'mong muốn mà không được là khổ.'
Và tóm lại 'năm thủ uẩn là khổ', có nghĩa là gì? Chúng là các thủ uẩn bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Đây là ý nghĩa của 'tóm lại, năm thủ uẩn là khổ'.
Đây sự thật khổ.
4.5.2. Nguồn gốc của khổ (Khổ Tập Thánh Đế)
Và này các Tỷ kheo, thế nào là Khổ Tập Thánh đế?
Đó là ái (craving / thèm khát) dẫn đến tái sanh trong tương lai, đi kèm với hỷ (relishing / sự thích thú, vui thích) và tham, tìm thấy khoái lạc chỗ này chỗ kia. Đó là: dục ái (craving for sensual pleasures / ham muốn các dục lạc), Hữu ái, và phi hữu ái (craving to end existence / ham muốn chấm dứt sự tồn tại).
Nhưng ái này sanh khởi ở đâu và an trú ở đâu? Bất cứ cái gì ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Và cái gì ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích? Mắt ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó. 898 Tai ... mũi ... lưỡi ... thân ... ý ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Các hình sắc ... các âm thanh ... các mùi hương ... các vị nếm ... các xúc chạm ... các ý tưởng ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Nhãn thức (eye consciousness / Ý thức của mắt: Là nhận biết thuần túy của não về quả táo đến não,sự 'tái hiện ở não' của hình ảnh) ... 899 nhĩ thức (ear consciousness /âm thanh 'tái hiện ở não') ... tỷ thức (nose consciousness / mùi được 'tái hiện ở não') ... thiệt thức (tongue consciousness / vị được 'tái hiện ở não') ... thân thức (body consciousness / tiếp xúc của cơ thể được 'tái hiện ở não') ... ý thức (mind consciousness / cái biết về quả táo được 'tái hiện ở não') ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Nhãn xúc (eye contact / sự kiện của thấy: 'ảnh quả táo' qua 'mắt' tái hiện lên ở 'não' ) ... 900 nhĩ xúc (ear contact / sự kiện của nghe) ... tỷ xúc (nose contact / sự kiện của ngửi) ... thiệt xúc (tongue contact / sự kiện của nếm) ... thân xúc (body contact / sự kiện của tiếp xúc) ... ý xúc (mind contact / sự kiện của 'cái biết về quả táo' tái hiện lên ở não) ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Cảm thọ (feeling / Thọ) sanh từ nhãn xúc ... cảm thọ sanh từ nhĩ xúc ... cảm thọ sanh từ tỷ xúc ... cảm thọ sanh từ thiệt xúc ... cảm thọ sanh từ thân xúc ... cảm thọ sanh từ ý xúc ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Nhận thức (perception / Tưởng) về các hình sắc ... 901 nhận thức về các âm thanh ... nhận thức về các mùi hương ... nhận thức về các vị nếm ... nhận thức về các xúc chạm ... nhận thức về các ý tưởng ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Tư niệm (intention / ý định, sự chủ ý) đối với các hình sắc ... 902 tư niệm đối với các âm thanh ... tư niệm đối với các mùi hương ... tư niệm đối với các vị nếm ... tư niệm đối với các xúc chạm ... tư niệm đối với các ý tưởng ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Ái đối với các hình sắc ... ái đối với các âm thanh ... ái đối với các mùi hương ... ái đối với các vị nếm ... ái đối với các xúc chạm ... ái đối với các ý tưởng ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Tầm (thoughts / sự suy nghĩ ban đầu, sự hướng tâm) về các hình sắc ... 903 tầm về các âm thanh ... tầm về các mùi hương ... tầm về các vị nếm ... tầm về các xúc chạm ... tầm về các ý tưởng ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Tứ (considerations / sự duy trì suy nghĩ, sự khảo sát) đối với các hình sắc ... 904 tứ đối với các âm thanh ... tứ đối với các mùi hương ... tứ đối với các vị nếm ... tứ đối với các xúc chạm ... tứ đối với các ý tưởng ở đời có vẻ đáng yêu và đáng ưa thích, và ái này sanh khởi và an trú ở đó.
Đây gọi là Nguồn gốc của khổ (Khổ Tập Thánh đế).
Chúng tôi viết lại theo tuần tự của bài kinh và thêm các chú giải theo sự hiểu biết của chúng tôi
I. Quá Trình Nhận Thức Nền Tảng (tức thời và tự động)
1. Nhãn (Eye/mắt): Các cơ quan cảm giác (mắt, tai, mũi...) tiếp nhận kích thích vật lý và chuyển nó thành tín hiệu thần kinh, giống như ống kính máy ảnh
2. Sắc (Stimulus/ kích thích): Đây là yếu tố vật lý khách quan bên ngoài. (Quả táo)
3. Nhãn thức (Eye Consciousness/Ý thức của mắt): Tín hiệu được truyền đến các vùng xử lý sơ cấp trong não (ví dụ: vỏ não thị giác). Đây là lúc "ý thức" về sự tồn tại của tín hiệu hình thành. Là nhận biết thuần túy của não về quả táo đến não, tái hiện hình ảnh quả táo trong não, biết đơn thuần, không có cảm xúc.
4. Nhãn xúc (Eye Contact): Não bộ tích hợp các thông tin: "tín hiệu này đến từ mắt" và "đây là một đối tượng thị giác". Một sự kiện nhận thức hoàn chỉnh được tạo ra: "việc nhìn thấy một vật thể". Là 'Sự kiện' hội tụ 3 thứ Măt + Nhãn Căn+ Quả táo
5. Thọ (Feeling/ cảm xúc): hệ viền (limbic system), đặc biệt là hạch hạnh nhân (amygdala), nhanh chóng "dán nhãn" cảm xúc cho sự kiện này: dễ chịu (thích), khó chịu (ghét), hoặc trung tính. Đây là một phản ứng sinh tồn rất nguyên thủy.
6. Nhận thức(Perception/Tưởng): Nhận dạng & Gán nhãn Khái niệm. Vỏ não cấp cao hơn (như thùy thái dương) truy cập vào bộ nhớ để nhận dạng và đặt tên cho đối tượng:"Đây là quả táo đỏ".
II. Củng cố Vòng Lặp Nhận Thức
7. Tư (Intention/Chủ ý): là ý định hay sự thôi thúc đi kèm với mọi hành động. Nó là "động lực" hướng tâm trí về một đối tượng. Dưới góc độ khoa học thần kinh, nó có thể tương ứng với hoạt động ở vỏ não trước trán (prefrontal cortex) liên quan đến việc ra quyết định và định hướng sự chú ý. Nó không chỉ là "muốn tìm sự vui vẻ" mà là sự thôi thúc hướng đến bất kỳ đối tượng nào (kể cả khó chịu).
8. Ái (Craving / Thèm muốn): sự kích hoạt của hệ thống khen thưởng (reward system) trong não, đặc biệt là con đường dopamine. Khi "Thọ" (Feeling) ghi nhận một cảm giác dễ chịu, hệ thống này sẽ được kích hoạt. Nó tạo ra một tín hiệu mạnh mẽ: "Cái này thật tuyệt! Hãy làm lại! Hãy có được nó!". Đây không phải là một suy nghĩ có cấu trúc, mà là một cơn bốc đồng, một sự thôi thúc mang tính sinh học sâu sắc để tìm kiếm sự tồn tại hoặc lặp lại của trải nghiệm thú vị đó. Nó là gốc rễ của nghiện ngập.
9. Tầm (Thought / Khởi phát Dòng suy nghĩ): Tâm trí bắt đầu suy nghĩ có chủ đích về đối tượng: "Bông hoa này đẹp thật. Nó làm mình nhớ đến...". Đây là ý nghĩ đầu tiên nảy sinh, bám vào đối tượng của sự ham muốn.
10. Tứ (Consideration / Duy trì & Xây dựng Dòng suy nghĩ): Dòng suy nghĩ ban đầu được duy trì, phát triển và đào sâu. Bạn bắt đầu lên kế hoạch, tưởng tượng, so sánh: "Mình nên trồng hoa hồng ở nhà. Trồng ở đâu nhỉ? Cần mua những gì? Nếu có nó thì khu vườn sẽ đẹp biết bao...". Đây là quá trình suy tư, nghiền ngẫm, làm cho sự bám chấp vào đối tượng trở nên sâu sắc hơn.\
4.5.3. Sự chấm dứt Khổ ( Diệt Đế )
Và sự chấm dứt khổ là gì?
Đó là sự phai nhạt và chấm dứt hoàn toàn không còn tàn dư của ái (thèm khát); từ bỏ nó, buông bỏ nó, giải thoát khỏi nó, và không bám víu vào nó.
Bất cứ gì trên đời tốt đẹp và dễ chịu, chính ở đó niềm yêu thích được từ bỏ và chấm dứt.
Và điều gì trên đời có vẻ tốt đẹp và dễ chịu? Mắt ở trên đời có vẻ tốt đẹp và dễ chịu, và chính ở đó ái được từ bỏ và chấm dứt. ...
Sự Suy nghĩ về các ý tưởng ở trên đời có vẻ tốt đẹp và dễ chịu (Considerations regarding ideas in the world seem nice and pleasant / những suy nghĩ về ý tưởng trong thế giới có vẻ tốt đẹp và dễ chịu), và chính ở đó ái được từ bỏ và chấm dứt.
Đây được gọi là sự chấm dứt khổ.
4.5.4. Đạo Đế
Và này các Tỷ kheo, thế nào là Đạo Thánh đế, con đường đưa đến sự chấm dứt khổ?
Đó chính là Bát Chánh Đạo (noble eightfold path / con đường tám nhánh cao quý) này, tức là: chánh tư duy /nhìn nhận đúng đắn (right thought / suy nghĩ đúng đắn), chánh ngữ (right speech / lời nói đúng đắn), chánh nghiệp (right action / hành động đúng đắn), chánh mạng (right livelihood / nghề nghiệp đúng đắn), chánh tinh tấn (right effort / cố gắng đúng đắn), chánh niệm (right mindfulness / sự duy trì quan sát đúng đắn), và chánh định (right immersion / tập trung đúng đắn). 905
Và này các Tỷ kheo, thế nào là chánh kiến (nhìn nhận đúng đắn)? Tri kiến về khổ, tri kiến về khổ tập, tri kiến về khổ diệt, và tri kiến về con đường đưa đến khổ diệt. 906 Đây gọi là nhìn nhận đúng đắn.
Và này các Tỷ kheo, thế nào là chánh tư duy? Tư duy về ly dục (renunciation / sự từ bỏ ham muốn), tư duy về vô sân (good will / lòng không sân hận, tâm từ), và tư duy về vô hại (harmlessness / lòng không làm hại, tâm bi). 907 Đây gọi là chánh tư duy.
Và này các Tỷ kheo, thế nào là chánh ngữ? Từ bỏ nói dối, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, và từ bỏ nói lời vô ích. Đây gọi là chánh ngữ.
Và này các Tỷ kheo, thế nào là chánh nghiệp? Từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, và từ bỏ tà dâm. 908 Đây gọi là chánh nghiệp.
Và này các Tỷ kheo, thế nào là chánh mạng? Ở đây, vị Thánh đệ tử từ bỏ tà mạng và nuôi sống bằng chánh mạng. 909 Đây gọi là chánh mạng.
Và này các Tỷ kheo, thế nào là chánh tinh tấn? Ở đây, Tỷ kheo khởi lên ý muốn, cố gắng, nỗ lực, sách tấn tâm, và tinh cần để các pháp ác, bất thiện chưa sanh không sanh khởi. Vị ấy khởi lên ý muốn, cố gắng, nỗ lực, sách tấn tâm, và tinh cần để các pháp ác, bất thiện đã sanh được đoạn trừ. Vị ấy khởi lên ý muốn, cố gắng, nỗ lực, sách tấn tâm, và tinh cần để các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi. Vị ấy khởi lên ý muốn, cố gắng, nỗ lực, sách tấn tâm, và tinh cần để các pháp thiện đã sanh được duy trì, không bị mất đi, mà tăng trưởng, viên mãn, và hoàn thiện nhờ tu tập. Đây gọi là chánh tinh tấn.
Và này các Tỷ kheo, thế nào là chánh niệm? Ở đây, Tỷ kheo quán thân trên thân—nhiệt tâm, tỉnh giác, nhận biết tỉnh thức, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy quán thọ trên các cảm thọ—nhiệt tâm, tỉnh giác, nhận biết tỉnh thức, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy quán tâm trên tâm—nhiệt tâm, tỉnh giác, nhận biết tỉnh thức, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy quán pháp trên các pháp—nhiệt tâm, tỉnh giác, nhận biết tỉnh thức, nhiếp phục tham ưu ở đời. Đây gọi là nhận biết tỉnh thức đúng đắn.
Và này các Tỷ kheo, thế nào là chánh định? Ở đây, Tỷ kheo, rời bỏ các dục lạc, rời bỏ các pháp bất thiện, nhập và trú sơ thiền (first absorption / tầng thiền thứ nhất), một trạng thái có niềm vui và an ổn do ly dục sanh, có tầm có tứ. Khi tầm và tứ lắng dịu, vị ấy nhập và trú nhị thiền (second absorption / tầng thiền thứ hai), một trạng thái có niềm vui và an ổn do định sanh, nội tĩnh nhất tâm (internal clarity and mind at one / sự yên lặng bên trong và tâm hợp nhất), không tầm không tứ. Và với sự phai nhạt của niềm vui, vị ấy nhập và trú tam thiền (third absorption / tầng thiền thứ ba), nơi vị ấy trú với xả (equanimity / sự bình thản, không thiên vị), nhận biết tỉnh thức và tỉnh giác, thân cảm sự an ổn mà các bậc Thánh gọi là 'Xả niệm trú lạc.' Từ bỏ lạc và khổ, và chấm dứt hỷ ưu trước kia, vị ấy nhập và trú tứ thiền (fourth absorption / tầng thiền thứ tư), không khổ không lạc, với xả niệm thanh tịnh. Đây gọi là chánh định.
Đây gọi là Đạo Thánh đế, con đường đưa đến sự chấm dứt khổ.
Như vậy, vị ấy quán pháp trên các pháp ở nội phần, hay quán pháp trên các pháp ở ngoại phần, hay quán pháp trên các pháp ở cả nội phần và ngoại phần. Vị ấy quán các pháp sanh khởi trên các pháp, hay quán các pháp diệt tận trên các pháp, hay quán các pháp sanh diệt trên các pháp. Hay nhận biết tỉnh thức của vị ấy được an trú với ý nghĩ: 'Có các pháp đây', chỉ với mục đích hiểu biết và nhận biết tỉnh thức. Vị ấy sống không nương tựa, không nắm giữ bất cứ gì ở đời.
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với bốn Thánh đế là như vậy.
Ai tu tập bốn pháp quán niệm xứ này theo cách này trong bảy năm, có thể mong đợi một trong hai kết quả: 910 giác ngộ ngay trong đời này, hoặc nếu còn dư sót, thì chứng quả Bất Lai (non-return / không còn quay trở lại cõi dục).
Huống nữa là bảy năm, 911 ai tu tập bốn pháp quán niệm xứ này theo cách này trong sáu năm ... năm năm ... bốn năm ... ba năm ... hai năm ... một năm ... bảy tháng ... sáu tháng ... năm tháng ... bốn tháng ... ba tháng ... hai tháng ... một tháng ... nửa tháng ... Huống nữa là nửa tháng, ai tu tập bốn pháp quán niệm xứ này theo cách này trong bảy ngày, có thể mong đợi một trong hai kết quả: giác ngộ ngay trong đời này, hoặc nếu còn dư sót, thì chứng quả Bất Lai.
'Bốn pháp quán niệm xứ là con đường độc nhất. Chúng nhằm để thanh tịnh chúng sanh, để vượt qua sầu bi, để diệt trừ khổ ưu, để chứng ngộ chánh đạo, và để chứng ngộ Niết Bàn.' Đó là điều Ta đã nói, và đây là lý do Ta nói như vậy."
Đó là những gì Đức Phật đã dạy. Các Tỷ kheo hoan hỷ, tín thọ lời Đức Phật dạy.