Skip to content

27. Kinh Khởi Thế Nhân Bổn

Aggaññasutta

Như vầy tôi nghe.98 Một thời, Đức Phật trú gần thành Sāvatthī, tại Lộc Tử Mẫu Giảng Đường trong Tu viện phía Đông.99

Lúc bấy giờ, Vāseṭṭha và Bhāradvāja đang sống như những người tập sự giữa các Tỷ kheo với hy vọng được thọ giới.100 Rồi vào buổi chiều, Đức Phật từ giảng đường đi xuống và đang đi kinh hành ngoài trời, dưới bóng của giảng đường.

Vāseṭṭha thấy Ngài101 và nói với Bhāradvāja, "Thưa hiền giả Bhāradvāja, Đức Phật đang đi kinh hành ngoài trời, dưới bóng của giảng đường. Nào, thưa hiền giả, chúng ta hãy đến chỗ Đức Phật. Hy vọng chúng ta sẽ được nghe một bài Pháp thoại từ Ngài."

"Vâng, thưa hiền giả," Bhāradvāja đáp.

Thế là họ đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ, và đi bên cạnh Ngài.

Rồi Đức Phật nói với Vāseṭṭha, "Này Vāseṭṭha, cả hai con đều là người Bà-la-môn về dòng dõi và gia tộc, và đã từ bỏ đời sống thế tục để sống không nhà cửa từ một gia đình Bà-la-môn. Ta hy vọng các con không phải chịu đựng sự lăng mạ và sỉ nhục từ những người Bà-la-môn."

"Thưa Ngài, thật ra, những người Bà-la-môn có sỉ nhục và lăng mạ chúng con bằng những lời sỉ nhục điển hình của họ một cách thậm tệ nhất."

"Nhưng những người Bà-la-môn sỉ nhục các con như thế nào?"

"Thưa Ngài, những người Bà-la-môn nói rằng: 'Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp cao nhất; các giai cấp khác là hạ đẳng.102 Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp thanh bạch; các giai cấp khác là hắc ám.103 Chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, không phải các hạng người khác.104 Chỉ có Bà-la-môn là những người con chân chính của Phạm Thiên, sinh ra từ miệng ngài, do Phạm Thiên sinh, do Phạm Thiên tạo, là những người thừa tự của Phạm Thiên. Cả hai ngươi đã từ bỏ giai cấp cao nhất để gia nhập một giai cấp hạ đẳng, tức là bọn đầu trọc, sa-môn giả, hạng người hạ tiện, những đứa con đen đúa sinh ra từ chân của bà con chúng ta.105 Điều này không đúng, không phải lẽ!' Đó là cách những người Bà-la-môn sỉ nhục chúng con."

"Thật ra, này Vāseṭṭha, những người Bà-la-môn đang quên đi truyền thống của họ khi nói điều này với các con. Vì người ta vẫn thấy những người phụ nữ Bà-la-môn có kinh nguyệt, mang thai, sinh con, và cho con bú.106 Tuy nhiên, dù được sinh ra từ bụng mẹ Bà-la-môn, họ vẫn nói: 'Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp cao nhất; các giai cấp khác là hạ đẳng. Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp thanh bạch; các giai cấp khác là hắc ám. Chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, không phải các hạng người khác. Chỉ có Bà-la-môn là những người con chân chính của Phạm Thiên, sinh ra từ miệng ngài, do Phạm Thiên sinh, do Phạm Thiên tạo, là những người thừa tự của Phạm Thiên.' Họ xuyên tạc về người Bà-la-môn, nói lời gian dối, và tạo ra nhiều điều ác.

1. Sự Thanh Tịnh trong Bốn Giai Cấp

Này Vāseṭṭha, có bốn giai cấp này: quý tộc, Bà-la-môn, nông dân, và tiện dân. Một số người quý tộc sát sanh, trộm cắp, và tà dâm. Họ dùng lời nói dối trá, chia rẽ, thô ác, và vô ích. Và họ tham lam, ác ý, với tà kiến. Những điều này là bất thiện, đáng chê trách, không nên tu tập, không xứng với bậc thánh---và được xem là như vậy. Chúng là những hành vi đen tối với kết quả đen tối, bị người có trí tuệ chỉ trích. Những điều như vậy thể hiện ở một số người quý tộc.107 Và chúng cũng được thấy ở một số người Bà-la-môn, nông dân, và tiện dân.

Nhưng một số người quý tộc từ bỏ sát sanh, trộm cắp, và tà dâm. Họ từ bỏ lời nói dối trá, chia rẽ, thô ác, và vô ích. Và họ biết đủ, có lòng từ, với chánh kiến. Những điều này là thiện, không đáng chê trách, nên tu tập, xứng với bậc thánh---và được xem là như vậy. Chúng là những hành vi trong sáng với kết quả trong sáng, được người có trí tuệ tán thán. Những điều như vậy thể hiện ở một số người quý tộc. Và chúng cũng được thấy ở một số người Bà-la-môn, nông dân, và tiện dân.

Cả hai điều này xảy ra như vậy, trộn lẫn trong bốn giai cấp này---điều đen tối và điều trong sáng, điều được tán thán và điều bị người có trí tuệ chỉ trích. Tuy nhiên, về điều này, những người Bà-la-môn nói: 'Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp cao nhất; các giai cấp khác là hạ đẳng. Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp thanh bạch; các giai cấp khác là hắc ám. Chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, không phải các hạng người khác. Chỉ có Bà-la-môn là những người con chân chính của Phạm Thiên, sinh ra từ miệng ngài, do Phạm Thiên sinh, do Phạm Thiên tạo, là những người thừa tự của Phạm Thiên.'

Người có trí tuệ không công nhận điều này. Tại sao vậy? Bởi vì bất kỳ Tỷ kheo nào từ bốn giai cấp này mà đã chứng đắc A-la-hán—với các lậu hoặc (defilements / những ô nhiễm tinh thần) đã tận, đã hoàn thành phạm hạnh, đã làm những gì cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích tối hậu của mình, đã hoàn toàn đoạn tận hữu kiết sử (fetter of continued existence / sợi dây ràng buộc vào sự tồn tại), và được giải thoát một cách chân chính nhờ trí tuệ viên mãn---thì được xem là tối thượng nhờ vào Pháp, chứ không phải trái với Pháp.108 Vì Pháp, này Vāseṭṭha, là điều cao quý nhất cho mọi người trong cả đời này và đời sau.

Và đây là cách để hiểu tại sao lại như vậy.

Vua Pasenadi của xứ Kosala biết rằng sa-môn Gotama đã xuất gia từ dòng họ Thích-ca lân cận. Và người Thích-ca là thần dân của vua.109 Người Thích-ca thể hiện sự tôn kính đối với Vua Pasenadi bằng cách cúi đầu, đứng dậy, chắp tay chào, và tuân thủ các nghi thức phù hợp với vua. Giờ đây, Vua Pasenadi cũng thể hiện sự tôn kính tương tự đối với Như Lai. Nhưng vua không nghĩ rằng: 'Sa-môn Gotama xuất thân cao quý, ta xuất thân hèn kém.110 Ngài có quyền lực, ta yếu thế. Ngài đẹp đẽ, ta xấu xí. Ngài có ảnh hưởng, ta tầm thường.' Thay vào đó, khi thể hiện sự tôn kính như vậy đối với Như Lai, vua chỉ đang tôn vinh, kính trọng, và sùng kính Pháp. Và đây là một cách khác để hiểu tại sao Pháp là điều cao quý nhất cho mọi người trong cả đời này và đời sau.

Này Vāseṭṭha, các con có dòng dõi, tên họ, gia tộc, và gia đình khác nhau, nhưng đã từ bỏ đời sống thế tục để sống không nhà cửa.111 Khi người ta hỏi các con là ai, các con tự nhận mình là những sa-môn theo dòng Thích-ca. Nhưng chỉ khi một người có niềm tin vào Như Lai—vững chắc, bám rễ sâu, mạnh mẽ, không thể bị lay chuyển bởi bất kỳ sa-môn, Bà-la-môn, thần linh, Ma vương, hay bất kỳ ai trên thế gian—thì người đó mới thích hợp để nói rằng: 'Tôi là người con chân chính của Đức Phật, sinh ra từ miệng Ngài, sinh ra từ Pháp, được tạo ra bởi Pháp, là người thừa tự của Pháp.'112 Tại sao vậy? Vì đây là những danh xưng của Như Lai: 'hiện thân của Pháp', và 'hiện thân của Phạm Thiên', và 'biểu hiện của Pháp', và 'biểu hiện của Phạm Thiên'.113

Có một thời điểm, này Vāseṭṭha, sau một thời gian rất dài trôi qua, thế giới này co lại.114 Khi thế giới co lại, chúng sanh hầu hết hướng về Quang Âm Thiên (realm of streaming radiance / cõi trời của các vị trời có ánh sáng rực rỡ). Ở đó, họ do ý tạo thành, nuôi sống bằng niềm vui, tự mình phát sáng, bay đi trong không trung, vinh quang bền vững, và họ cứ như vậy trong một thời gian rất dài.

Có một thời điểm, sau một thời gian rất dài trôi qua, thế giới này giãn ra. Khi thế giới giãn ra, chúng sanh hầu hết từ cõi trời quang âm ấy mệnh chung và trở lại cõi này.115 Ở đây, họ do ý tạo thành, nuôi sống bằng niềm vui, tự mình phát sáng, bay đi trong không trung, vinh quang bền vững, và họ cứ như vậy trong một thời gian rất dài.116

2. Vị Đất Xuất Hiện

Nhưng khối nước duy nhất vào thời điểm đó hoàn toàn tối tăm.117 Mặt trăng và mặt trời không được tìm thấy, cũng không có các vì sao và chòm sao, ngày và đêm, tháng và nửa tháng, năm và mùa, hay nam và nữ. Chúng sanh chỉ được biết đến là 'chúng sanh'.118 Sau một thời gian rất dài trôi qua, vị đất đông lại trong nước.119 Nó xuất hiện giống như lớp váng trên mặt cháo sữa nóng khi nguội đi. Nó đẹp, thơm, và ngon, như bơ lỏng hay bơ đặc. Và nó ngọt như mật ong rừng nguyên chất.120 Bấy giờ, một trong những chúng sanh đó đã tùy tiện. Nghĩ rằng, 'Ồ, đây có thể là gì nhỉ?' họ nếm vị đất bằng ngón tay của mình.121 Họ thích thú, và lòng tham ái sinh khởi trong họ.122 Và các chúng sanh khác, theo gương chúng sanh đó, nếm vị đất bằng ngón tay của họ. Họ cũng thích thú, và lòng tham ái sinh khởi trong họ.

3. Mặt Trăng và Mặt Trời Xuất Hiện

Rồi những chúng sanh đó bắt đầu ăn vị đất, bẻ nó thành từng miếng. Nhưng khi họ làm điều này, ánh sáng của họ biến mất. Và với sự biến mất của ánh sáng, mặt trăng và mặt trời xuất hiện, các vì sao và chòm sao xuất hiện, ngày và đêm được phân biệt, và cả tháng và nửa tháng, năm và mùa cũng vậy. Thế giới đã tiến hóa trở lại đến mức đó.

Rồi những chúng sanh đó ăn vị đất, với đó làm thức ăn và dưỡng chất, tồn tại trong một thời gian rất dài. Nhưng chừng nào họ còn ăn vị đất đó, thân thể họ trở nên rắn chắc hơn và họ khác biệt về ngoại hình; một số đẹp, một số xấu. Và những chúng sanh đẹp nhìn xuống những người xấu xí:123 'Chúng ta đẹp hơn, chúng là những kẻ xấu xí!' Và lòng kiêu mạn của những người đẹp đã làm cho vị đất biến mất. Họ tụ tập lại và than thở, 'Ôi, thật là một hương vị! Ôi, thật là một hương vị!' Và ngay cả ngày nay khi người ta có được thứ gì ngon, họ cũng nói: 'Ôi, thật là một hương vị! Ôi, thật là một hương vị!' Họ chỉ đang nhớ lại một câu nói cổ xưa từ thời nguyên thủy, nhưng họ không hiểu ý nghĩa của nó.124

4. Nấm Đất

Khi vị đất đã biến mất, nấm đất xuất hiện với những chúng sanh đó.125 Nó xuất hiện giống như một cây nấm. Nó đẹp, thơm, và ngon, như bơ lỏng hay bơ đặc. Và nó ngọt như mật ong rừng nguyên chất.

Rồi những chúng sanh đó bắt đầu ăn nấm đất. Với đó làm thức ăn và dưỡng chất, họ tồn tại trong một thời gian rất dài. Nhưng chừng nào họ còn ăn nấm đất đó, thân thể họ trở nên rắn chắc hơn và họ khác biệt về ngoại hình; một số đẹp, một số xấu. Và những chúng sanh đẹp nhìn xuống những người xấu xí: 'Chúng ta đẹp hơn, chúng là những kẻ xấu xí!' Và lòng kiêu mạn của những người đẹp đã làm cho nấm đất biến mất.

5. Cây Leo Bám

Khi nấm đất đã biến mất, cây leo bám xuất hiện, giống như quả của cây kadam.126 Chúng đẹp, thơm, và ngon, như bơ lỏng hay bơ đặc. Và chúng ngọt như mật ong rừng nguyên chất.

Rồi những chúng sanh đó bắt đầu ăn cây leo bám. Với đó làm thức ăn và dưỡng chất, họ tồn tại trong một thời gian rất dài. Nhưng chừng nào họ còn ăn những cây leo bám đó, thân thể họ trở nên rắn chắc hơn và họ khác biệt về ngoại hình; một số đẹp, một số xấu. Và những chúng sanh đẹp nhìn xuống những người xấu xí: 'Chúng ta đẹp hơn, chúng là những kẻ xấu xí!' Và lòng kiêu mạn của những người đẹp đã làm cho cây leo bám biến mất.

Họ tụ tập lại và than thở, 'Ôi, chúng ta đã mất gì! Ôi, chúng ta đã mất gì---những cây leo bám đó!' Và ngay cả ngày nay khi người ta trải qua đau khổ, họ nói: 'Ôi, chúng ta đã mất gì! Ôi, chúng ta đã mất gì!' Họ chỉ đang nhớ lại một câu nói cổ xưa từ thời nguyên thủy, nhưng họ không hiểu ý nghĩa của nó.

6. Lúa Chín Mọc Tự Nhiên

Khi cây leo bám đã biến mất, lúa chín mọc tự nhiên xuất hiện với những chúng sanh đó. Nó không có cám hay trấu, tinh khiết và thơm, chỉ có hạt gạo. Những gì họ lấy cho bữa tối, đến sáng hôm sau đã mọc lại và chín. Và những gì họ lấy cho bữa sáng, đến chiều đã mọc lại và chín, không để lại dấu vết nào. Rồi những chúng sanh đó ăn lúa chín mọc tự nhiên, với đó làm thức ăn và dưỡng chất, tồn tại trong một thời gian rất dài.

7. Tình Dục Xuất Hiện

Nhưng chừng nào họ còn ăn lúa chín mọc tự nhiên đó, thân thể họ trở nên rắn chắc hơn và họ khác biệt về ngoại hình. Và nữ tính xuất hiện ở người nữ, trong khi nam tính xuất hiện ở người nam.127 Phụ nữ dành quá nhiều thời gian nhìn ngắm đàn ông, và đàn ông nhìn ngắm phụ nữ. Họ trở nên dục vọng, và thân thể họ bừng cháy vì ham muốn. Do ham muốn này, họ đã quan hệ tình dục với nhau.

Những người thấy họ quan hệ tình dục đã ném đất, cục đất, hoặc phân bò vào họ, nói rằng,128 'Cút đi, đồ dơ bẩn! Cút đi, đồ dơ bẩn! 129 Làm sao một chúng sanh lại có thể làm điều đó với một chúng sanh khác?'130 Và ngay cả ngày nay, ở một số quốc gia, khi rước dâu, người ta ném đất, cục đất, hoặc phân bò vào cô dâu.131 Họ chỉ đang nhớ lại một câu nói cổ xưa từ thời nguyên thủy, nhưng họ không hiểu ý nghĩa của nó.

8. Giao Hợp

Điều được coi là phi pháp vào thời đó, ngày nay lại được coi là hợp pháp.132 Những chúng sanh giao hợp với nhau không được phép vào làng hay thị trấn trong một hoặc hai tháng. Kể từ khi họ quá sa đà vào sự vô đạo đức, họ bắt đầu xây nhà để che giấu những hành vi vô đạo đức của mình.133 Rồi một trong những chúng sanh có tính lười biếng nghĩ rằng, 'Này, tại sao ta phải bận tâm đi lấy gạo vào buổi tối cho bữa tối, và vào buổi sáng cho bữa sáng? Sao ta không lấy gạo cho cả bữa tối và bữa sáng cùng một lúc?'134

Thế là người đó đã làm vậy. Rồi một chúng sanh khác đến gần chúng sanh đó và nói, 'Nào, bạn hiền, chúng ta hãy đi lấy gạo.' 'Không cần đâu, bạn hiền! Tôi đã lấy gạo cho cả bữa tối và bữa sáng cùng một lúc rồi.' Thế là chúng sanh kia, theo gương họ, đã lấy gạo cho hai ngày cùng một lúc, nghĩ rằng: 'Điều này có vẻ ổn.'135

Rồi một chúng sanh khác đến gần chúng sanh đó và nói, 'Nào, bạn hiền, chúng ta hãy đi lấy gạo.' 'Không cần đâu, bạn hiền! Tôi đã lấy gạo cho hai ngày cùng một lúc rồi.' Thế là chúng sanh kia, theo gương họ, đã lấy gạo cho bốn ngày cùng một lúc, nghĩ rằng: 'Điều này có vẻ ổn.'

Rồi một chúng sanh khác đến gần chúng sanh đó và nói, 'Nào, bạn hiền, chúng ta hãy đi lấy gạo.' 'Không cần đâu, bạn hiền! Tôi đã lấy gạo cho bốn ngày cùng một lúc rồi.' Thế là chúng sanh kia, theo gương họ, đã lấy gạo cho tám ngày cùng một lúc, nghĩ rằng: 'Điều này có vẻ ổn.'

Nhưng khi họ bắt đầu tích trữ gạo để ăn, hạt gạo bị bọc trong cám và trấu, nó không mọc lại sau khi gặt, để lại dấu vết, và lúa mọc thành từng cụm.136

9. Phân Chia Lúa Gạo

Rồi những chúng sanh đó tụ tập lại và than thở, 'Ôi, những điều xấu xa đã xuất hiện giữa các chúng sanh! 137 Vì chúng ta từng do ý tạo thành, nuôi sống bằng niềm vui, tự mình phát sáng, bay đi trong không trung, vinh quang bền vững, và chúng ta đã như vậy trong một thời gian rất dài. Sau một thời gian rất dài trôi qua, vị đất đông lại trong nước. Nhưng do những điều xấu, bất thiện giữa chúng ta, vị đất đã biến mất, rồi nấm đất biến mất, cây leo bám biến mất, và bây giờ hạt gạo đã bị bọc trong cám và trấu, nó không mọc lại sau khi gặt, để lại dấu vết, và lúa mọc thành từng cụm. Tốt hơn hết chúng ta nên phân chia lúa gạo và đặt ra ranh giới.'138 Thế là họ đã làm vậy.

Bấy giờ, một trong những chúng sanh đó đã liều lĩnh. Trong khi canh giữ phần của mình, họ đã lấy phần của người khác mà không được cho, và ăn nó.139

Họ bắt người đã làm điều đó và nói, 'Ngươi đã làm một điều xấu, bạn hiền, khi đang canh giữ phần của mình, ngươi đã lấy phần của người khác mà không được cho, và ăn nó. Đừng làm điều như vậy nữa.'

'Vâng, thưa các ngài,' chúng sanh đó đáp. Nhưng lần thứ hai, và lần thứ ba họ cũng làm điều tương tự, và bị bảo là không được tiếp tục.140 Và rồi họ đánh chúng sanh đó, một số bằng nắm đấm, một số bằng đá, và một số khác bằng gậy.141 Từ ngày đó, trộm cắp được thấy, và sự đổ lỗi, và nói dối, và việc dùng đến gậy gộc.142

10. Vị Vua Được Bầu Lên

Rồi những chúng sanh đó tụ tập lại và than thở, 'Ôi, những điều xấu xa đã xuất hiện giữa các chúng sanh, khi mà trộm cắp được thấy, và sự đổ lỗi, nói dối và việc dùng đến gậy gộc! Sao chúng ta không bầu ra một chúng sanh có thể khiển trách đúng người đáng bị, quở trách đúng người đáng bị, và trục xuất đúng người đáng bị?143 Chúng ta sẽ trả công cho họ bằng một phần lúa gạo.'144

Rồi những chúng sanh đó đến gần chúng sanh trong số họ mà hấp dẫn nhất, ưa nhìn nhất, đáng yêu nhất, và lừng lẫy nhất, và nói,145 'Nào, bạn hiền, hãy khiển trách đúng người đáng bị, quở trách đúng người đáng bị, và trục xuất đúng người đáng bị.146 Chúng tôi sẽ trả công cho ngài bằng một phần lúa gạo.' 'Vâng, thưa các ngài,' chúng sanh đó đáp. Họ đã hành động tương ứng, và được trả công bằng một phần lúa gạo.

'Được dân chúng bầu lên', này Vāseṭṭha, là ý nghĩa của 'người được bầu' (mahāsammata), danh xưng đầu tiên được dùng cho họ.147

'Chủ của những cánh đồng' là ý nghĩa của 'quý tộc' (khattiya), danh xưng thứ hai được dùng cho họ.148

'Họ làm hài lòng người khác bằng Pháp' là ý nghĩa của 'vua' (rājā), danh xưng thứ ba được dùng cho họ.149

Và đó, này Vāseṭṭha, là cách mà các danh xưng nguyên thủy cổ xưa cho giai cấp quý tộc được tạo ra; cho chính những chúng sanh đó, không phải những người khác; cho những người giống họ, không phải không giống; nhờ vào Pháp, không phải trái với Pháp. Vì Pháp, này Vāseṭṭha, là điều cao quý nhất cho mọi người trong cả đời này và đời sau.

11. Giai Cấp Bà-la-môn

Rồi một số trong cùng những chúng sanh đó nghĩ rằng, 'Ôi, những điều xấu xa đã xuất hiện giữa các chúng sanh, khi mà trộm cắp được thấy, và sự đổ lỗi, nói dối và việc dùng đến gậy gộc và sự trục xuất! Sao chúng ta không loại bỏ những điều xấu, bất thiện?'150 Thế là họ đã làm vậy.

'Họ loại bỏ những điều xấu, bất thiện' là ý nghĩa của 'Bà-la-môn' (brāhmaṇa), danh xưng đầu tiên được dùng cho họ.151

Họ xây những túp lều lá trong một vùng hoang dã nơi họ thiền định trong sạch và sáng suốt, không đốt lửa nấu ăn hay đào đất. Họ xuống làng, thị trấn, hoặc kinh thành vào buổi sáng để khất thực bữa sáng và vào buổi tối để khất thực bữa tối.152 Khi đã có thức ăn, họ tiếp tục thiền định trong những túp lều lá.

Khi mọi người nhận thấy điều này, họ nói, 'Những chúng sanh này xây những túp lều lá trong một vùng hoang dã nơi họ thiền định trong sạch và sáng suốt, không đốt lửa nấu ăn hay đào đất. Họ xuống làng, thị trấn, hoặc kinh thành vào buổi sáng để khất thực bữa sáng và vào buổi tối để khất thực bữa tối. Khi đã có thức ăn, họ tiếp tục thiền định trong những túp lều lá.'

'Họ thiền định' là ý nghĩa của 'người thiền định' (jhāyaka), danh xưng thứ hai được dùng cho họ.153

Nhưng một số trong những chúng sanh đó không thể duy trì việc thiền định của họ trong những túp lều lá ở nơi hoang dã. Họ xuống khu vực lân cận một ngôi làng hoặc thị trấn nơi họ ở và biên soạn kinh sách.154

Khi mọi người nhận thấy điều này, họ nói, 'Những chúng sanh này không thể duy trì việc thiền định của họ trong những túp lều lá ở nơi hoang dã. Họ xuống khu vực lân cận một ngôi làng hoặc thị trấn nơi họ ở và biên soạn kinh sách. Bây giờ họ không thiền định.'

'Bây giờ họ không thiền định' là ý nghĩa của 'người tụng đọc' (ajjhāyaka), danh xưng thứ ba được dùng cho họ.155 Điều được coi là tồi tệ hơn vào thời đó, ngày nay lại được coi là tốt nhất.

Và đó, này Vāseṭṭha, là cách mà các danh xưng nguyên thủy cổ xưa cho giai cấp Bà-la-môn được tạo ra; cho chính những chúng sanh đó, không phải những người khác; cho những người giống họ, không phải không giống; nhờ vào Pháp, không phải trái với Pháp. Vì Pháp, này Vāseṭṭha, là điều cao quý nhất cho mọi người trong cả đời này và đời sau.

12. Giai Cấp Nông Dân

Một số trong cùng những chúng sanh đó, chấp nhận đời sống tình dục tích cực, đã dấn thân vào nhiều công việc khác nhau.

'Sau khi chấp nhận đời sống tình dục tích cực, họ dấn thân vào nhiều công việc khác nhau' là ý nghĩa của 'nông dân' (vessa), danh xưng được dùng cho họ.156

Và đó, này Vāseṭṭha, là cách mà danh xưng nguyên thủy cổ xưa cho giai cấp nông dân được tạo ra; cho chính những chúng sanh đó, không phải những người khác; cho những người giống họ, không phải không giống; nhờ vào Pháp, không phải trái với Pháp. Vì Pháp, này Vāseṭṭha, là điều cao quý nhất cho mọi người trong cả đời này và đời sau.

13. Giai Cấp Tiện Dân

Những chúng sanh còn lại sống bằng nghề săn bắn tàn nhẫn và các công việc nhỏ nhặt.

'Họ sống bằng nghề săn bắn tàn nhẫn và các công việc nhỏ nhặt' là ý nghĩa của 'tiện dân' (sudda), danh xưng được dùng cho họ.157

Và đó, này Vāseṭṭha, là cách mà danh xưng nguyên thủy cổ xưa cho giai cấp tiện dân được tạo ra; cho chính những chúng sanh đó, không phải những người khác; cho những người giống họ, không phải không giống; nhờ vào Pháp, không phải trái với Pháp. Vì Pháp, này Vāseṭṭha, là điều cao quý nhất cho mọi người trong cả đời này và đời sau.

Đã có lúc một người quý tộc,158 Bà-la-môn, nông dân, hoặc tiện dân, chê bai nghề nghiệp của mình, đã từ bỏ đời sống thế tục để sống không nhà cửa, nghĩ rằng, 'Ta sẽ trở thành một sa-môn.'

Từ bốn giai cấp này, này Vāseṭṭha, giai cấp sa-môn được tạo ra; cho chính những chúng sanh đó, không phải những người khác; cho những người giống họ, không phải không giống; nhờ vào Pháp, không phải trái với Pháp. Vì Pháp, này Vāseṭṭha, là điều cao quý nhất cho mọi người trong cả đời này và đời sau.

14. Về Hành Vi Xấu

Một người quý tộc, Bà-la-môn, nông dân, tiện dân, hoặc sa-môn có thể làm những điều xấu qua thân, khẩu, và ý. Họ có tà kiến, và họ hành động dựa trên tà kiến đó. Và vì thế, khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, họ tái sinh vào cõi mất mát, nơi xấu, thế giới ngầm, địa ngục.

Một người quý tộc, Bà-la-môn, nông dân, tiện dân, hoặc sa-môn có thể làm những điều tốt qua thân, khẩu, và ý. Họ có chánh kiến, và họ hành động dựa trên chánh kiến đó. Và vì thế, khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, họ tái sinh vào nơi tốt lành, cõi trời.

Một người quý tộc, Bà-la-môn, nông dân, tiện dân, hoặc sa-môn có thể làm những điều thiện ác lẫn lộn qua thân, khẩu, và ý. Họ có kiến giải hỗn hợp, và họ hành động dựa trên kiến giải hỗn hợp đó. Và vì thế, khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, họ trải nghiệm cả lạc và khổ.

15. Những Phẩm Chất Dẫn Đến Giác Ngộ

Một người quý tộc, Bà-la-môn, nông dân, tiện dân, hoặc sa-môn, người thu thúc thân, khẩu, và ý, và phát triển thất giác chi (seven qualities that lead to awakening / bảy yếu tố đưa đến giác ngộ), sẽ đạt được Niết-bàn ngay trong đời này.

Bất kỳ Tỷ kheo nào từ bốn giai cấp này mà đã chứng đắc A-la-hán—với các lậu hoặc đã tận, đã hoàn thành phạm hạnh, đã làm những gì cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích tối hậu của mình, đã hoàn toàn đoạn tận hữu kiết sử, và được giải thoát một cách chân chính nhờ trí tuệ viên mãn---thì được xem là tối thượng nhờ vào Pháp, không phải trái với Pháp. Vì Pháp, này Vāseṭṭha, là điều cao quý nhất cho mọi người trong cả đời này và đời sau.

Vị trời Sanaṅkumāra cũng đã nói bài kệ này:

'Người quý tộc là cao quý nhất trong những người
lấy gia tộc làm tiêu chuẩn.
Nhưng người thành tựu về minh và hạnh
là bậc nhất trong chư thiên và loài người.'

Bài kệ đó đã được vị trời Sanaṅkumāra hát lên rất hay, không phải hát dở; nói rất hay, không phải nói dở; có lợi ích, không có hại, và Ta đồng ý với nó.159 Ta cũng nói rằng:

Người quý tộc là cao quý nhất trong những người
lấy gia tộc làm tiêu chuẩn.
Nhưng người thành tựu về minh và hạnh
là bậc nhất trong chư thiên và loài người."

Đó là những gì Đức Phật đã nói. Lòng đầy hoan hỷ, Vāseṭṭha và Bhāradvāja đã tán thán những gì Đức Phật nói.