Skip to content

Phẩm về Bà-la-môn

AN 3.51 Hai Vị Bà-la-môn (Thứ nhất) Paṭhamadvebrāhmaṇasutta

Khi ấy, có hai vị Bà-la-môn già, cao niên, trưởng thượng, tuổi đã cao, đi đến giai đoạn cuối của cuộc đời, đã một trăm hai mươi tuổi, đi đến Thế Tôn và chào hỏi Ngài. Sau khi chào hỏi và nói chuyện thân mật, họ ngồi xuống một bên và thưa với Thế Tôn:

"Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi là những Bà-la-môn già, cao niên, trưởng thượng, tuổi đã cao và đã đến giai đoạn cuối của cuộc đời; chúng tôi đã một trăm hai mươi tuổi. Và chúng tôi chưa làm điều lành, điều thiện, cũng chưa tạo nơi nương tựa khỏi sợ hãi. Xin Tôn giả Gotama khuyên dạy chúng tôi, xin Tôn giả Gotama chỉ bảo chúng tôi! Điều đó sẽ vì lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho chúng tôi."

"Thật vậy, này các Bà-la-môn, các ông đã già, cao niên, trưởng thượng. Và các ông chưa làm điều lành, điều thiện, cũng chưa tạo nơi nương tựa khỏi sợ hãi. Thế giới này bị dẫn dắt bởi già, bệnh và chết. Nhưng sự thu thúc (restraint/chế ngự) nơi thân, khẩu, ý ở đây chính là nơi trú ẩn, nơi bảo vệ, là hòn đảo, là nơi nương tựa, là bến đỗ cho người đã khuất.

Đời này, thật quá ngắn, bị cuốn đi mãi.
Không nơi nương náu cho kẻ
>bị tuổi già dẫn dắt.
Thấy hiểm nguy này trong cái chết,
hãy làm các việc lành mang lại hạnh phúc.

Sự thu thúc thực hành ở đây---
nơi thân, khẩu, và ý---
dẫn dắt người đã khuất đến hạnh phúc,
như các việc lành đã làm khi còn sống."

AN 3.52 Hai Vị Bà-la-môn (Thứ hai) Dutiyadvebrāhmaṇasutta

Khi ấy, có hai vị Bà-la-môn già---cao niên, trưởng thượng, tuổi đã cao, đi đến giai đoạn cuối của cuộc đời, đã một trăm hai mươi tuổi---đi đến Thế Tôn, đảnh lễ, rồi ngồi xuống một bên và thưa với Thế Tôn:

"Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi là những Bà-la-môn già, cao niên, trưởng thượng, tuổi đã cao và đã đến giai đoạn cuối của cuộc đời; chúng tôi đã một trăm hai mươi tuổi. Và chúng tôi chưa làm điều lành, điều thiện, cũng chưa tạo nơi nương tựa khỏi sợ hãi. Xin Tôn giả Gotama khuyên dạy chúng tôi, xin Tôn giả Gotama chỉ bảo chúng tôi! Điều đó sẽ vì lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho chúng tôi."

"Thật vậy, này các Bà-la-môn, các ông đã già, cao niên, trưởng thượng. Và các ông chưa làm điều lành, điều thiện, cũng chưa tạo nơi nương tựa khỏi sợ hãi. Thế giới này đang bốc cháy bởi già, bệnh và chết. Nhưng sự thu thúc nơi thân, khẩu, ý ở đây chính là nơi trú ẩn, nơi bảo vệ, là hòn đảo, là nơi nương tựa, là bến đỗ cho người đã khuất.

Khi nhà ông đang cháy,
ông cứu cái nồi
còn hữu dụng,
chứ không phải cái đã cháy.

Và khi thế giới đang bốc cháy
bởi tuổi già và cái chết,
ông nên cứu vớt bằng cách bố thí,
vì những gì đã cho đi là được cứu vớt.

Sự thu thúc thực hành ở đây---
nơi thân, khẩu, và ý---
dẫn dắt người đã khuất đến hạnh phúc,
như các việc lành đã làm khi còn sống."

AN 3.53 Một Vị Bà-la-môn Nào Đó Aññatarabrāhmaṇasutta

Khi ấy, một vị Bà-la-môn đi đến Thế Tôn và chào hỏi Ngài. Ngồi xuống một bên, ông thưa với Thế Tôn:

"Thưa Tôn giả Gotama, người ta nói về 'một giáo pháp thiết thực hiện tại (a teaching apparent in the present life/sanditthika dhamma)'. Giáo pháp thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thì, đến để thấy, có tính hướng thượng, để người trí tự mình liễu tri là như thế nào?"

"Này Bà-la-môn, người tham lam, bị lòng tham chi phối, xâm chiếm, khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy cảm thọ khổ ưu về tâm. Khi lòng tham được từ bỏ, người ấy không khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy không cảm thọ khổ ưu về tâm. Đây là cách giáo pháp thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thì, đến để thấy, có tính hướng thượng, để người trí tự mình liễu tri.

Người sân hận, bị lòng sân chi phối, khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy cảm thọ khổ ưu về tâm. Khi lòng sân được từ bỏ, người ấy không khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy không cảm thọ khổ ưu về tâm. Đây cũng là cách giáo pháp thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thì, đến để thấy, có tính hướng thượng, để người trí tự mình liễu tri.

Người si mê, bị si mê chi phối, khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy cảm thọ khổ ưu về tâm. Khi si mê được từ bỏ, người ấy không khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy không cảm thọ khổ ưu về tâm. Đây cũng là cách giáo pháp thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thì, đến để thấy, có tính hướng thượng, để người trí tự mình liễu tri."

"Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay! Như người dựng lại những gì bị đổ, bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người lạc lối, hay cầm đèn trong bóng tối để người có mắt có thể thấy các vật, Tôn giả Gotama đã làm sáng tỏ giáo pháp bằng nhiều cách. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng đoàn Tỳ-kheo (mendicant Saṅgha/Tỳ-kheo Tăng). Kể từ hôm nay, xin Tôn giả Gotama ghi nhận con là một cư sĩ (lay follower/upasaka) đã quy y trọn đời."

AN 3.54 Một Vị Du Sĩ Paribbājakasutta

Khi ấy, một vị du sĩ (wanderer/paribbājaka) Bà-la-môn đi đến Thế Tôn... Ngồi xuống một bên, ông thưa với Thế Tôn:

"Thưa Tôn giả Gotama, người ta nói về 'một giáo pháp thiết thực hiện tại'. Giáo pháp thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thì, đến để thấy, có tính hướng thượng, để người trí tự mình liễu tri là như thế nào?"

"Này du sĩ, người tham lam, bị lòng tham chi phối, khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy cảm thọ khổ ưu về tâm. Khi lòng tham được từ bỏ, người ấy không khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy không cảm thọ khổ ưu về tâm.

Người tham lam làm điều ác qua thân, khẩu, ý. Khi lòng tham được từ bỏ, người ấy không làm điều ác qua thân, khẩu, ý.

Người tham lam không thực sự hiểu rõ lợi ích của mình, lợi ích của người, hay lợi ích của cả hai. Khi lòng tham được từ bỏ, người ấy thực sự hiểu rõ lợi ích của mình, lợi ích của người, và lợi ích của cả hai. Đây là cách giáo pháp thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thì, đến để thấy, có tính hướng thượng, để người trí tự mình liễu tri.

Người sân hận... Người si mê, bị si mê chi phối, khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy cảm thọ khổ ưu về tâm. Khi si mê được từ bỏ, người ấy không khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy không cảm thọ khổ ưu về tâm.

Người si mê làm điều ác qua thân, khẩu, ý. Khi si mê được từ bỏ, người ấy không làm điều ác qua thân, khẩu, ý.

Người si mê không thực sự hiểu rõ lợi ích của mình, lợi ích của người, hay lợi ích của cả hai. Khi si mê được từ bỏ, người ấy thực sự hiểu rõ lợi ích của mình, lợi ích của người, và lợi ích của cả hai. Đây cũng là cách giáo pháp thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thì, đến để thấy, có tính hướng thượng, để người trí tự mình liễu tri."

"Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay! ... Kể từ hôm nay, xin Tôn giả Gotama ghi nhận con là một cư sĩ đã quy y trọn đời."

AN 3.55 Tịch Diệt Nibbutasutta

Khi ấy, Bà-la-môn Jānussoṇi đi đến Thế Tôn, đảnh lễ, ngồi xuống một bên và thưa với Thế Tôn:

"Thưa Tôn giả Gotama, người ta nói rằng 'sự tịch diệt (extinguishment/nibbāna/niết-bàn) là thiết thực hiện tại'. Sự tịch diệt thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thì, đến để thấy, có tính hướng thượng, để người trí tự mình liễu tri là như thế nào?"

"Này Bà-la-môn, người tham lam, bị lòng tham chi phối, khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy cảm thọ khổ ưu về tâm. Khi lòng tham được từ bỏ, người ấy không khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy không cảm thọ khổ ưu về tâm. Đây là cách sự tịch diệt thiết thực hiện tại.

Người sân hận...

Người si mê, bị si mê chi phối, khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy cảm thọ khổ ưu về tâm. Khi si mê được từ bỏ, người ấy không khởi ý làm hại mình, làm hại người, làm hại cả hai. Người ấy không cảm thọ khổ ưu về tâm. Đây cũng là cách sự tịch diệt thiết thực hiện tại.

Khi ông kinh nghiệm được sự đoạn tận hoàn toàn tham, sân, si, đó là cách sự tịch diệt thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thì, đến để thấy, có tính hướng thượng, để người trí tự mình liễu tri."

"Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay! ... Kể từ hôm nay, xin Tôn giả Gotama ghi nhận con là một cư sĩ đã quy y trọn đời."

AN 3.56 Tan Rã Palokasutta

Khi ấy, một vị Bà-la-môn giàu có đi đến Thế Tôn, và ngồi xuống một bên, ông thưa với Ngài:

"Thưa Tôn giả Gotama, tôi nghe các vị Bà-la-môn quá khứ, những người cao niên, trưởng thượng, thầy của các bậc thầy, nói rằng: 'Ngày xưa, thế giới này đông đúc người đến nỗi tưởng như chen chúc nhau. Các làng mạc, thị trấn và kinh thành chỉ cách nhau một tầm gà bay.' Thưa Ngài, nguyên nhân nào, lý do gì mà ngày nay số lượng người đã suy giảm, sự sụt giảm dân số là rõ ràng, và toàn bộ làng mạc, thị trấn, thành phố, và quốc gia đã biến mất?"

"Này Bà-la-môn, ngày nay, con người chỉ yêu thích ham muốn phi pháp. Họ bị lòng tham phi đạo đức chi phối, và sa lầy vào tà tục. Cầm lấy dao bén, họ sát hại lẫn nhau. Và vì thế nhiều người chết đi. Đây là nguyên nhân, đây là lý do tại sao ngày nay số lượng người đã suy giảm.

Hơn nữa, vì ngày nay con người chỉ yêu thích ham muốn phi pháp... nên trời không mưa đủ, vì thế có nạn đói, mất mùa, mùa màng thất bát biến thành rơm rạ. Và vì thế nhiều người chết đi. Đây là nguyên nhân, đây là lý do tại sao ngày nay số lượng người đã suy giảm.

Hơn nữa, vì ngày nay con người chỉ yêu thích ham muốn phi pháp... nên các phi nhân (native spirits/yakkha) thả các loài quỷ dữ. Và vì thế nhiều người chết đi. Đây là nguyên nhân, đây là lý do tại sao ngày nay số lượng người đã suy giảm."

"Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay! ... Kể từ hôm nay, xin Tôn giả Gotama ghi nhận con là một cư sĩ đã quy y trọn đời."

AN 3.57 Với Vacchagotta Vacchagottasutta

Khi ấy, du sĩ Vacchagotta đi đến Thế Tôn và chào hỏi Ngài. Sau khi chào hỏi và nói chuyện thân mật, ông ngồi xuống một bên và thưa với Thế Tôn:

"Thưa Tôn giả Gotama, tôi nghe nói rằng Sa-môn Gotama nói thế này: 'Chỉ nên cúng dường cho ta, không nên cho người khác. Chỉ nên cúng dường cho đệ tử của ta, không nên cho đệ tử của người khác. Chỉ những gì cúng dường cho ta mới có quả lớn, không phải những gì cúng dường cho người khác. Chỉ những gì cúng dường cho đệ tử của ta mới có quả lớn, không phải những gì cúng dường cho đệ tử của người khác.'

Tôi tin rằng những người nói điều này có lặp lại đúng lời Thế Tôn đã nói, và không xuyên tạc Ngài bằng điều không thật không? Lời giải thích của họ có phù hợp với giáo pháp không? Có cơ sở chính đáng nào để phản bác và chỉ trích không? Vì chúng tôi không muốn xuyên tạc Tôn giả Gotama."

"Này Vaccha, những người nói vậy không lặp lại lời Ta nói. Họ xuyên tạc Ta bằng điều sai sự thật, không đúng sự thật.

Bất cứ ai ngăn cản người khác bố thí là tạo ra chướng ngại và rào cản cho ba người. Ba người nào? Người cho bị cản trở tạo phước. Người nhận bị cản trở nhận vật cúng dường. Và tự họ đã làm tổn hại và hủy hoại chính mình. Bất cứ ai ngăn cản người khác bố thí là tạo ra chướng ngại và rào cản cho ba người này.

Này Vaccha, đây là điều Ta nói: 'Ông thậm chí còn tạo phước bằng cách đổ nước rửa chén vào hố phân hay vũng nước tù đọng có chúng sinh trong đó, với ý nghĩ: "Mong rằng các sinh vật ở đây được nuôi dưỡng!"' Huống nữa là đối với con người!

Tuy nhiên, Ta cũng nói rằng cúng dường cho người có giới hạnh thì có quả lớn hơn cúng dường cho người không có giới hạnh. Họ đã từ bỏ năm yếu tố, và sở hữu năm yếu tố.

Năm yếu tố họ đã từ bỏ là gì? Dục tham (sensual desire/kāmacchanda), sân hận (ill will/byāpāda), tâm trí lờ đờ và ngủ ngầm (dullness and drowsiness/thīna-middha/hôn trầm và thụy miên), bồn chồn và hối tiếc (restlessness and remorse/uddhacca-kukkucca/trạo cử và hối quá), và nghi ngờ (doubt/vicikicchā). Đây là năm yếu tố họ đã từ bỏ. (Đây là Năm Triền Cái)

Năm yếu tố họ sở hữu là gì? Toàn bộ phạm vi giới, định, tuệ, giải thoát, và tri kiến giải thoát của bậc Thánh (adept's ethics, immersion, wisdom, freedom, and knowledge and vision of freedom/sekha sīlakkhandha, samādhikkhandha, paññākkhandha, vimuttikkhandha, vimuttiñāṇadassanakkhandha). Đây là năm yếu tố họ sở hữu.

Ta nói rằng cúng dường cho bất kỳ ai đã từ bỏ năm yếu tố này và sở hữu năm yếu tố này thì có quả rất lớn.

Bò có thể đen hay trắng,
đỏ hay nâu vàng,
lốm đốm hay một màu,
hoặc màu bồ câu.

Nhưng khi một con được sinh ra giữa chúng,
con bò đực được điều phục---
một con vật khổng lồ, mạnh mẽ,
kéo về phía trước nhịp nhàng---
người ta chỉ att ách cho nó,
bất kể màu lông của nó.

Con người cũng vậy,
dù sinh ra ở đâu---
giữa dòng dõi quý tộc, Bà-la-môn, nông dân,
tiện dân, hay người làm nghề xác chết và nhặt rác---

một người được sinh ra giữa họ,
được điều phục, giữ đúng lời nguyện.
Vững vàng trong nguyên tắc, thành tựu giới hạnh,
chân thật, biết tàm quý,

họ đã từ bỏ sinh và tử.
Hoàn thành phạm hạnh,
đặt gánh nặng xuống, vô nhiễm,
họ đã hoàn thành nhiệm vụ
>và không còn lậu hoặc (defilements/āsava/phiền não).

Vượt qua mọi sự vật,
họ tịch diệt do không còn chấp thủ.
Trong ruộng phước vô thượng đó,
sự cúng dường tôn giáo là dồi dào.

Kẻ ngu không hiểu---
những kẻ khờ khạo vô học---
cúng dường cho những người bên ngoài,
và không thân cận bậc tịch tịnh.

Nhưng những ai thân cận bậc tịch tịnh---
người trí, được xem là tinh cần---
và có niềm tin vào Đấng Thiện Thệ
đã bén rễ sâu xa,

họ đi đến cõi trời,
hoặc được sinh ra ở đây trong gia đình tốt.
Dần dần những người trí ấy
đạt đến Niết-bàn."

AN 3.58 Với Tikaṇṇa Tikaṇṇasutta

Khi ấy, Bà-la-môn Tikaṇṇa đi đến Thế Tôn và chào hỏi Ngài. Ngồi xuống một bên, trước mặt Thế Tôn, Tikaṇṇa ca ngợi các vị Bà-la-môn thông thạo Tam Veda, "Những vị Bà-la-môn như vậy là bậc thầy Tam Veda! Các vị Bà-la-môn như thế là bậc thầy Tam Veda!"

"Nhưng này Bà-la-môn, các vị Bà-la-môn mô tả một vị Bà-la-môn là bậc thầy Tam Veda như thế nào?"

"Thưa Tôn giả Gotama, đó là khi một vị Bà-la-môn xuất thân tốt đẹp cả từ bên mẹ lẫn bên cha, dòng dõi thanh tịnh, với gia phả không thể chối cãi và không tì vết ngược lên đến bảy đời tổ phụ. Vị ấy tụng đọc và ghi nhớ các thánh ca, và đã thông thạo Tam Veda, cùng với từ vựng và nghi lễ thực hành, âm vị học và phân loại từ, và các thánh thư là phần thứ năm. Vị ấy biết chúng từng từ, và ngữ pháp của chúng. Vị ấy thông thạo vũ trụ học và các tướng của bậc đại nhân. Đó là cách các vị Bà-la-môn mô tả một vị Bà-la-môn là bậc thầy Tam Veda."

"Này Bà-la-môn, một bậc thầy Tam Minh (master of three knowledges/tevijja) theo quan điểm của Bà-la-môn khá khác biệt so với một bậc thầy Tam Minh trong sự tu tập của bậc Thánh."

"Nhưng thưa Tôn giả Gotama, làm thế nào một người là bậc thầy Tam Minh trong sự tu tập của bậc Thánh? Thưa Tôn giả Gotama, xin hãy dạy con điều này."

"Vậy thì, này Bà-la-môn, hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói."

"Vâng, thưa Ngài," Tikaṇṇa đáp. Thế Tôn nói điều này:

"Này Bà-la-môn, đó là khi một vị Tỳ-kheo, hoàn toàn ly dục, ly các pháp bất thiện, chứng và trú sơ thiền (first absorption/pathama jhāna), một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm có tứ. Khi tầm và tứ được lắng dịu, vị ấy chứng và trú nhị thiền (second absorption/dutiya jhāna), một trạng thái hỷ lạc do định sinh, nội tĩnh nhất tâm, không tầm không tứ. Và với sự phai nhạt của hỷ, vị ấy chứng và trú tam thiền (third absorption/tatiya jhāna), nơi vị ấy trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc mà các bậc Thánh gọi là 'xả niệm lạc trú'. Với việc xả lạc xả khổ, và sự chấm dứt của hỷ ưu trước đó, vị ấy chứng và trú tứ thiền (fourth absorption/catuttha jhāna), không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Khi tâm vị ấy đã nhập định (immersion/samādhi) như vậy---thanh tịnh, trong sáng, không tì vết, thoát khỏi các cấu uế, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, và bất động---vị ấy hướng tâm đến trí nhớ các đời quá khứ (recollection of past lives/pubbenivāsānussati-ñāṇa). Vị ấy nhớ lại nhiều đời quá khứ. Đó là: một, hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, một trăm, một nghìn, một trăm nghìn kiếp; nhiều kiếp hoại của thế giới, nhiều kiếp thành của thế giới, nhiều kiếp hoại và thành của thế giới. Vị ấy nhớ: 'Ở đó, ta tên là thế này, dòng họ là thế kia, hình dáng như thế này, và thức ăn của ta là thế đó. Đây là cách ta cảm nhận lạc và khổ, và đó là cách đời ta kết thúc. Khi ta chết đi từ nơi đó, ta được tái sinh ở nơi khác. Ở đó, ta cũng tên là thế này, dòng họ là thế kia, hình dáng như thế này, và thức ăn của ta là thế đó. Đây là cách ta cảm nhận lạc và khổ, và đó là cách đời ta kết thúc. Khi ta chết đi từ nơi đó, ta được tái sinh ở đây.' Và cứ thế, vị ấy nhớ lại nhiều đời quá khứ của mình, với các đặc điểm và chi tiết. Đây là minh thứ nhất mà vị ấy đạt được. Vô minh bị hủy diệt và minh đã sinh khởi; bóng tối bị hủy diệt và ánh sáng đã sinh khởi, như xảy ra với một thiền giả tinh cần, nhiệt tâm, và kiên quyết.

Khi tâm vị ấy đã nhập định như vậy---thanh tịnh, trong sáng, không tì vết, thoát khỏi các cấu uế, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, và bất động---vị ấy hướng tâm đến trí về sự chết và tái sinh của chúng sinh (knowledge of the death and rebirth of sentient beings/cutūpapāta-ñāṇa). Với thiên nhãn thanh tịnh và siêu phàm, vị ấy thấy chúng sinh chết đi và tái sinh---hèn hạ và cao quý, xinh đẹp và xấu xí, ở nơi tốt đẹp hay nơi xấu xa. Vị ấy hiểu chúng sinh tái sinh như thế nào tùy theo nghiệp của họ: 'Những chúng sinh thân thương này đã làm điều ác qua thân, khẩu, ý. Họ phỉ báng các bậc Thánh; họ có tà kiến; và họ đã chọn hành động theo tà kiến đó. Khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, họ tái sinh vào nơi mất mát, nơi xấu xa, địa ngục. Tuy nhiên, những chúng sinh thân thương này đã làm điều tốt qua thân, khẩu, ý. Họ không bao giờ phỉ báng các bậc Thánh; họ có chánh kiến; và họ đã chọn hành động theo chánh kiến đó. Khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, họ tái sinh vào nơi tốt đẹp, cõi trời.' Và cứ thế, với thiên nhãn thanh tịnh và siêu phàm, vị ấy thấy chúng sinh chết đi và tái sinh---hèn hạ và cao quý, xinh đẹp và xấu xí, ở nơi tốt đẹp hay nơi xấu xa. Vị ấy hiểu chúng sinh tái sinh như thế nào tùy theo nghiệp của họ. Đây là minh thứ hai mà vị ấy đạt được. Vô minh bị hủy diệt và minh đã sinh khởi; bóng tối bị hủy diệt và ánh sáng đã sinh khởi, như xảy ra với một thiền giả tinh cần, nhiệt tâm, và kiên quyết.

Khi tâm vị ấy đã nhập định như vậy---thanh tịnh, trong sáng, không tì vết, thoát khỏi các cấu uế, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, và bất động---vị ấy hướng tâm đến trí về sự đoạn tận các lậu hoặc (knowledge of the ending of defilements/āsavakkhaya-ñāṇa). Vị ấy thực sự hiểu: 'Đây là khổ'... 'Đây là nguồn gốc của khổ'... 'Đây là sự diệt khổ'... 'Đây là con đường dẫn đến sự diệt khổ'. Vị ấy thực sự hiểu: 'Đây là các lậu hoặc'... 'Đây là nguồn gốc của các lậu hoặc'... 'Đây là sự diệt tận các lậu hoặc'... 'Đây là con đường dẫn đến sự diệt tận các lậu hoặc'. Biết và thấy như vậy, tâm vị ấy được giải thoát khỏi lậu hoặc dục vọng, lậu hoặc hữu ái, và lậu hoặc vô minh. Khi được giải thoát, vị ấy biết mình đã được giải thoát.

Vị ấy hiểu: 'Tái sinh đã chấm dứt, phạm hạnh đã hoàn thành, những gì cần làm đã làm xong, không còn gì phải làm ở nơi này nữa.' Đây là minh thứ ba mà vị ấy đạt được. Vô minh bị hủy diệt và minh đã sinh khởi; bóng tối bị hủy diệt, và ánh sáng đã sinh khởi, như xảy ra với một thiền giả tinh cần, nhiệt tâm, và kiên quyết.

Với người giới hạnh không lay chuyển,
tỉnh thức, thực hành thiền định;
tâm được làm chủ,
thống nhất, thanh tịnh.

Người tinh cần ấy xua tan bóng tối,
bậc thầy Tam Minh, người chiến thắng tử thần.
Vì lợi ích của trời và người,
vị ấy đã từ bỏ mọi thứ, người ta nói vậy.

Thành tựu Tam Minh,
sống không hoang mang,
mang thân cuối cùng,
họ tôn kính Đức Phật Gotama giác ngộ.

Người biết các đời quá khứ,
thấy cõi trời và nơi đọa xứ,
và đã đạt đến sự chấm dứt tái sinh,
một bậc hiền triết có trí tuệ viên mãn---

chính vì ba minh này
mà một vị Bà-la-môn là bậc thầy Tam Minh.
Đó là người Ta gọi là bậc thầy Tam Minh,
chứ không phải người khác
>chỉ lặp lại những gì họ được kể.

Đây, này Bà-la-môn, là một bậc thầy Tam Minh trong sự tu tập của bậc Thánh."

"Thưa Tôn giả Gotama, một bậc thầy Tam Minh theo quan điểm của Bà-la-môn khá khác biệt so với một bậc thầy Tam Minh trong sự tu tập của bậc Thánh. Và, thưa Tôn giả Gotama, một bậc thầy Tam Minh theo quan điểm của Bà-la-môn không bằng một phần mười sáu của một bậc thầy Tam Minh trong sự tu tập của bậc Thánh.

Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay! ... Kể từ hôm nay, xin Tôn giả Gotama ghi nhận con là một cư sĩ đã quy y trọn đời."

AN 3.59 Với Jānussoṇi Jāṇussoṇisutta

Khi ấy, Bà-la-môn Jānussoṇi đi đến Thế Tôn và chào hỏi Ngài. Ngồi xuống một bên, ông thưa với Thế Tôn:

"Thưa Tôn giả Gotama, bất cứ ai có lễ tế, lễ cúng dường tổ tiên, món cơm sữa chuẩn bị cho nghi lễ tốt lành, hoặc quà tặng để cho đi, nên cúng dường cho các vị Bà-la-môn đã thông thạo Tam Veda."

"Nhưng này Bà-la-môn, các vị Bà-la-môn mô tả một vị Bà-la-môn thông thạo Tam Veda như thế nào?"

"Thưa Tôn giả Gotama, đó là khi một vị Bà-la-môn xuất thân tốt đẹp cả từ bên mẹ lẫn bên cha, dòng dõi thanh tịnh, với gia phả không thể chối cãi và không tì vết ngược lên đến bảy đời tổ phụ. Vị ấy tụng đọc và ghi nhớ các thánh ca, và đã thông thạo Tam Veda, cùng với từ vựng và nghi lễ thực hành, âm vị học và phân loại từ, và các thánh thư là phần thứ năm. Vị ấy biết chúng từng từ, và ngữ pháp của chúng. Vị ấy thông thạo vũ trụ học và các tướng của bậc đại nhân. Đó là cách các vị Bà-la-môn mô tả một vị Bà-la-môn thông thạo Tam Veda."

"Này Bà-la-môn, một bậc thầy Tam Minh theo quan điểm của Bà-la-môn khá khác biệt so với một bậc thầy Tam Minh trong sự tu tập của bậc Thánh."

"Nhưng thưa Tôn giả Gotama, làm thế nào một người là bậc thầy Tam Minh trong sự tu tập của bậc Thánh? Thưa Tôn giả Gotama, xin hãy dạy con điều này."

"Vậy thì, này Bà-la-môn, hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói."

"Vâng, thưa Ngài," Jānussoṇi đáp. Thế Tôn nói điều này:

"Này Bà-la-môn, đó là khi một vị Tỳ-kheo, hoàn toàn ly dục... chứng và trú tứ thiền.

Khi tâm vị ấy đã nhập định như vậy---thanh tịnh, trong sáng, không tì vết, thoát khỏi các cấu uế, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, và bất động---vị ấy hướng tâm đến trí nhớ các đời quá khứ. Vị ấy nhớ lại nhiều đời quá khứ, với các đặc điểm và chi tiết. Đây là minh thứ nhất mà vị ấy đạt được. Vô minh bị hủy diệt và minh đã sinh khởi; bóng tối bị hủy diệt và ánh sáng đã sinh khởi, như xảy ra với một thiền giả tinh cần, nhiệt tâm, và kiên quyết.

Khi tâm vị ấy đã nhập định như vậy---thanh tịnh, trong sáng, không tì vết, thoát khỏi các cấu uế, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, và bất động---vị ấy hướng tâm đến trí về sự chết và tái sinh của chúng sinh. Với thiên nhãn thanh tịnh và siêu việt hơn con người, vị ấy hiểu chúng sinh tái sinh như thế nào tùy theo nghiệp của họ. Đây là minh thứ hai mà vị ấy đạt được. Vô minh bị hủy diệt và minh đã sinh khởi; bóng tối bị hủy diệt và ánh sáng đã sinh khởi, như xảy ra với một thiền giả tinh cần, nhiệt tâm, và kiên quyết.

Khi tâm vị ấy đã nhập định như vậy---thanh tịnh, trong sáng, không tì vết, thoát khỏi các cấu uế, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, và bất động---vị ấy hướng tâm đến trí về sự đoạn tận các lậu hoặc. Vị ấy thực sự hiểu: 'Đây là khổ'... 'Đây là nguồn gốc của khổ'... 'Đây là sự diệt khổ'... 'Đây là con đường dẫn đến sự diệt khổ'. Vị ấy thực sự hiểu: 'Đây là các lậu hoặc'... 'Đây là nguồn gốc của các lậu hoặc'... 'Đây là sự diệt tận các lậu hoặc'... 'Đây là con đường dẫn đến sự diệt tận các lậu hoặc'. Biết và thấy như vậy, tâm vị ấy được giải thoát khỏi lậu hoặc dục vọng, lậu hoặc hữu ái, và lậu hoặc vô minh. Khi được giải thoát, vị ấy biết mình đã được giải thoát.

Vị ấy hiểu: 'Tái sinh đã chấm dứt, phạm hạnh đã hoàn thành, những gì cần làm đã làm xong, không còn gì phải làm ở nơi này nữa.' Đây là minh thứ ba mà vị ấy đạt được. Vô minh bị hủy diệt và minh đã sinh khởi; bóng tối bị hủy diệt, và ánh sáng đã sinh khởi, như xảy ra với một thiền giả tinh cần, nhiệt tâm, và kiên quyết.

Người hoàn hảo trong giới luật và nghi lễ,
kiên quyết và thanh tịnh,
tâm được làm chủ,
thống nhất, thanh tịnh;

người biết các đời quá khứ,
thấy cõi trời và nơi đọa xứ,
và đã đạt đến sự chấm dứt tái sinh,
bậc hiền triết như vậy có trí tuệ viên mãn.

Chính vì ba minh này
mà một vị Bà-la-môn là bậc thầy Tam Minh.
Đó là người Ta gọi là bậc thầy Tam Minh,
chứ không phải người khác
>chỉ lặp lại những gì họ được kể.

Đây, này Bà-la-môn, là một bậc thầy Tam Minh trong sự tu tập của bậc Thánh."

"Thưa Tôn giả Gotama, bậc thầy Tam Minh theo quan điểm của Bà-la-môn khá khác biệt so với một bậc thầy Tam Minh trong sự tu tập của bậc Thánh. Và, thưa Tôn giả Gotama, một bậc thầy Tam Minh theo quan điểm của Bà-la-môn không bằng một phần mười sáu của một bậc thầy Tam Minh trong sự tu tập của bậc Thánh.

Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay! ... Kể từ hôm nay, xin Tôn giả Gotama ghi nhận con là một cư sĩ đã quy y trọn đời."

AN 3.60 Với Saṅgārava Saṅgāravasutta

Khi ấy, Bà-la-môn Saṅgārava đi đến Thế Tôn và chào hỏi Ngài. Sau khi chào hỏi và nói chuyện thân mật, ông ngồi xuống một bên và thưa với Thế Tôn:

"Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi, những người được gọi là Bà-la-môn, thực hiện các lễ tế và khuyến khích người khác thực hiện lễ tế. Này Tôn giả Gotama, cả hai hạng người này---người thực hiện lễ tế và người khuyến khích người khác thực hiện lễ tế---đều đang làm điều tốt cho nhiều người nhờ vào lễ tế đó. Nhưng, thưa Tôn giả Gotama, khi một người từ bỏ đời sống tại gia để sống không nhà cửa, họ tự mình điều phục, làm lắng dịu, và tịch diệt. Như vậy, họ chỉ làm điều tốt cho một người nhờ vào sự xuất gia đó."

"Vậy thì, này Bà-la-môn, Ta sẽ hỏi lại ông về điều này, và ông có thể trả lời tùy ý. Ông nghĩ sao, này Bà-la-môn? Một Như Lai (Realized One/Tathāgata) xuất hiện trên thế gian, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài nói: 'Hãy đến, đây là con đường, đây là pháp hành. Thực hành như thế này, Ta đã tự mình chứng ngộ với trí tuệ về sự viên mãn tối thượng của đời sống phạm hạnh, và Ta tuyên bố điều đó. Xin tất cả các vị hãy thực hành như thế này, và các vị cũng sẽ chứng ngộ sự viên mãn tối thượng của đời sống phạm hạnh, và sẽ sống sau khi đã tự mình chứng ngộ với trí tuệ.' Như vậy, bậc Đạo Sư giảng dạy Pháp (Dhamma/Giáo Pháp), và những người khác thực hành theo, hàng trăm, hàng nghìn, hàng trăm nghìn người.

Ông nghĩ sao, này Bà-la-môn? Như vậy, họ đang làm điều tốt chỉ cho một người hay cho nhiều người nhờ vào sự xuất gia đó?"

"Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, họ đang làm điều tốt cho nhiều người nhờ vào sự xuất gia đó."

Khi ông nói điều này, Tôn giả Ānanda nói với Saṅgārava: "Này Bà-la-môn, trong hai pháp hành này, ông tin pháp hành nào có ít yêu cầu và công việc hơn, nhưng lại có quả và lợi ích lớn hơn?"

Saṅgārava nói với Ānanda: "Những vị như Tôn giả Gotama và Tôn giả Ānanda đều được tôi tôn kính và ca ngợi!"

Lần thứ hai, Ānanda nói với Saṅgārava: "Này Bà-la-môn, tôi không hỏi ông tôn kính và ca ngợi ai. Tôi hỏi ông tin pháp hành nào trong hai pháp hành này có ít yêu cầu và công việc hơn, nhưng lại có quả và lợi ích lớn hơn?"

Lần thứ hai Saṅgārava nói với Ānanda: "Những vị như Tôn giả Gotama và Tôn giả Ānanda đều được tôi tôn kính và ca ngợi!"

Lần thứ ba, Ānanda nói với Saṅgārava: "Này Bà-la-môn, tôi không hỏi ông tôn kính và ca ngợi ai. Tôi hỏi ông tin pháp hành nào trong hai pháp hành này có ít yêu cầu và công việc hơn, nhưng lại có quả và lợi ích lớn hơn?"

Lần thứ ba Saṅgārava nói với Ānanda: "Những vị như Tôn giả Gotama và Tôn giả Ānanda đều được tôi tôn kính và ca ngợi!"

Khi ấy, Thế Tôn nghĩ: "Dù Ānanda đã hỏi ông ta một câu hỏi hợp lý ba lần, Saṅgārava vẫn ngập ngừng không trả lời. Sao Ta không cho ông ta một lối thoát?"

Vì vậy, Thế Tôn nói với Saṅgārava: "Này Bà-la-môn, hôm nay trong đoàn tùy tùng của nhà vua, khi ngồi cùng nhau trong hoàng cung, đã có cuộc trò chuyện gì?"

"Thưa Tôn giả Gotama, đã có cuộc trò chuyện này: 'Dường như trước đây có ít Tỳ-kheo hơn, nhưng nhiều người trong số họ đã biểu diễn các thần thông (psychic power/iddhi) siêu phàm; trong khi ngày nay, có nhiều Tỳ-kheo hơn, nhưng ít người biểu diễn các thần thông siêu phàm hơn.' Đây là những gì đã được bàn luận trong đoàn tùy tùng của nhà vua hôm nay, khi ngồi cùng nhau trong hoàng cung."

"Này Bà-la-môn, có ba loại biểu hiện (demonstration/pāṭihāriya). Ba loại nào? Biểu hiện thần thông, biểu hiện ký thuyết (revealing/ādesanā), và biểu hiện giáo giới (instruction/anusāsanī).

Và biểu hiện thần thông là gì? Đó là khi một người vận dụng nhiều loại thần thông: từ một thân hiện thành nhiều thân, từ nhiều thân hiện thành một thân; hiện hình và biến mất; đi xuyên qua tường, thành lũy, hay núi không bị cản trở như đi trong hư không; lặn xuống và trồi lên khỏi mặt đất như trong nước; đi trên mặt nước như trên đất liền; bay đi trong không trung khi ngồi kiết già như chim; chạm và vuốt mặt trời và mặt trăng bằng tay, dù chúng rất hùng mạnh và quyền năng. Họ điều khiển thân thể đến tận cõi Phạm thiên. Đây gọi là biểu hiện thần thông.

Và biểu hiện ký thuyết là gì? Trong một trường hợp, một người tiết lộ bằng dấu hiệu: 'Đây là điều ông đang nghĩ, suy nghĩ của ông là như vậy, và trạng thái tâm của ông là thế này.' Và ngay cả khi họ tiết lộ điều này nhiều lần, nó vẫn diễn ra đúng như vậy, không khác.

Trong trường hợp khác, một người tiết lộ sau khi nghe từ người, phi nhân hoặc chư thiên: 'Đây là điều ông đang nghĩ, suy nghĩ của ông là như vậy, và trạng thái tâm của ông là thế này.' Và ngay cả khi họ tiết lộ điều này nhiều lần, nó vẫn diễn ra đúng như vậy, không khác.

Trong trường hợp khác, một người tiết lộ bằng cách nghe âm thanh của tư tưởng lan truyền khi ai đó suy nghĩ và cân nhắc: 'Đây là điều ông đang nghĩ, suy nghĩ của ông là như vậy, và trạng thái tâm của ông là thế này.' Và ngay cả khi họ tiết lộ điều này nhiều lần, nó vẫn diễn ra đúng như vậy, không khác.

Trong trường hợp khác, một người thấu hiểu tâm của một người đã đạt được trạng thái định không có tầm không có tứ. Họ hiểu: 'Xét theo cách các ý định của người này được hướng đến, ngay sau trạng thái tâm này, họ sẽ nghĩ đến ý nghĩ này.' Và ngay cả khi họ tiết lộ điều này nhiều lần, nó vẫn diễn ra đúng như vậy, không khác. Đây gọi là biểu hiện ký thuyết.

Và biểu hiện giáo giới là gì? Đó là khi một người hướng dẫn người khác như thế này: 'Hãy suy nghĩ như thế này, đừng như thế kia. Hãy tập trung tâm trí như thế này, đừng như thế kia. Hãy từ bỏ điều này, và sống sau khi đã đạt được điều kia.' Đây gọi là biểu hiện giáo giới.

Đây là ba loại biểu hiện. Trong ba loại biểu hiện này, ông xem loại nào là cao quý nhất?"

"Về điều này, thưa Tôn giả Gotama, biểu hiện thần thông chỉ được trải nghiệm bởi người thực hiện nó, chỉ xảy ra với họ. Điều này đối với tôi giống như một trò ảo thuật.

Và biểu hiện mà ai đó tiết lộ điều gì đó bằng dấu hiệu, hoặc sau khi nghe từ người, phi nhân, hoặc chư thiên, hoặc bằng cách nghe âm thanh của tư tưởng lan truyền khi ai đó suy nghĩ và cân nhắc, hoặc bằng cách thấu hiểu tâm của người khác, cũng chỉ được trải nghiệm bởi người thực hiện nó, chỉ xảy ra với họ. Điều này đối với tôi cũng giống như một trò ảo thuật.

Nhưng đối với biểu hiện mà ai đó hướng dẫn người khác: 'Hãy suy nghĩ như thế này, đừng như thế kia. Hãy tập trung tâm trí như thế này, đừng như thế kia. Hãy từ bỏ điều này, và sống sau khi đã đạt được điều kia.' Tôi thích biểu hiện này hơn, thưa Tôn giả Gotama. Đó là biểu hiện cao quý nhất trong ba loại biểu hiện.

Thật không thể tin được, thưa Tôn giả Gotama, thật tuyệt vời, Tôn giả Gotama đã nói điều này thật hay. Chúng tôi coi Tôn giả Gotama là người sở hữu ba loại biểu hiện này. Vì Tôn giả Gotama vận dụng nhiều loại thần thông... điều khiển thân thể đến tận cõi Phạm thiên. Và Tôn giả Gotama thấu hiểu tâm của người khác đã đạt được trạng thái định không có tầm không có tứ. Ngài hiểu: 'Xét theo cách các ý định của người này được hướng đến, ngay sau trạng thái tâm này, họ sẽ nghĩ đến ý nghĩ này.' Và Tôn giả Gotama hướng dẫn người khác như thế này: 'Hãy suy nghĩ như thế này, đừng như thế kia. Hãy tập trung tâm trí như thế này, đừng như thế kia. Hãy từ bỏ điều này, và sống sau khi đã đạt được điều kia.'"

"Lời nói của ông rõ ràng là xâm phạm và tọc mạch, này Bà-la-môn. Tuy nhiên, Ta sẽ trả lời ông. Vì Ta thực sự vận dụng nhiều loại thần thông... điều khiển thân thể đến tận cõi Phạm thiên. Và Ta thực sự thấu hiểu tâm của người khác đã đạt được trạng thái định không có tầm không có tứ. Ta hiểu: 'Xét theo cách các ý định của người này được hướng đến, ngay sau trạng thái tâm này, họ sẽ nghĩ đến ý nghĩ này.' Và Ta thực sự hướng dẫn người khác như thế này: 'Hãy suy nghĩ như thế này, đừng như thế kia. Hãy tập trung tâm trí như thế này, đừng như thế kia. Hãy từ bỏ điều này, và sống sau khi đã đạt được điều kia.'"

"Nhưng thưa Tôn giả Gotama, có Tỳ-kheo nào khác sở hữu ba loại biểu hiện này, ngoài Tôn giả Gotama không?"

"Không chỉ có một trăm Tỳ-kheo, này Bà-la-môn, sở hữu ba loại biểu hiện này, cũng không phải hai, ba, bốn, hay năm trăm, mà còn nhiều hơn thế nữa."

"Nhưng những vị Tỳ-kheo này hiện đang ở đâu?"

"Ngay tại đây, này Bà-la-môn, trong Tăng đoàn Tỳ-kheo này."

"Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay! Như người dựng lại những gì bị đổ, bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người lạc lối, hay cầm đèn trong bóng tối để người có mắt có thể thấy các vật, Tôn giả Gotama đã làm sáng tỏ giáo pháp bằng nhiều cách. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng đoàn Tỳ-kheo. Kể từ hôm nay, xin Tôn giả Gotama ghi nhận con là một cư sĩ đã quy y trọn đời."

Từ ngữ:

  • Thu thúc / restraint / saṃvara: Sự kiểm soát, giữ gìn các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) để không bị cuốn theo các đối tượng dễ chịu hoặc khó chịu, giúp tâm không bị dao động. Giống như việc đóng cửa nhà để ngăn trộm vào.
  • Thiết thực hiện tại / apparent in the present life / sandiṭṭhika: Một đặc tính của Giáo Pháp (Dhamma), nghĩa là lợi ích của việc thực hành có thể thấy được ngay trong đời sống này, không cần chờ đến kiếp sau. Ví dụ, khi bớt giận, ta thấy bình an ngay lập tức.
  • Sự tịch diệt / extinguishment / nibbāna/niết-bàn: Trạng thái chấm dứt hoàn toàn mọi khổ đau, phiền não (tham, sân, si). Đây là mục tiêu cuối cùng của người tu theo đạo Phật. Giống như ngọn lửa tắt đi khi hết nhiên liệu.
  • Du sĩ / wanderer / paribbājaka: Người tu hành không theo một tôn giáo truyền thống nhất định nào thời Ấn Độ cổ đại, thường đi lang thang, sống bằng khất thực và tìm kiếm chân lý qua các cuộc thảo luận triết học.
  • Phi nhân / native spirits / yakkha: Một loại chúng sinh trong thần thoại Ấn Độ, có thể tốt hoặc xấu, mạnh mẽ, đôi khi được xem là thần linh địa phương hoặc quỷ.
  • Năm Triền Cái / Five Hindrances / pañca nīvaraṇāni: Năm trạng thái tâm tiêu cực ngăn cản sự tiến bộ trong thiền định và trí tuệ: 1. Dục tham (ham muốn), 2. Sân hận (ghét bỏ), 3. Hôn trầm-thụy miên (lười biếng, buồn ngủ), 4. Trạo cử-hối quá (bồn chồn, lo lắng), 5. Nghi ngờ (không chắc chắn). Giống như 5 đám mây che khuất mặt trời trí tuệ.
  • Lậu hoặc / defilements / āsava/phiền não: Những ô nhiễm tinh thần sâu kín làm chúng sinh trôi lăn trong vòng sinh tử (luân hồi), bao gồm dục lậu (tham ái dục lạc), hữu lậu (tham ái sự tồn tại), và vô minh lậu (không hiểu biết chân lý).
  • Tam Minh / Three Knowledges / tevijjā: Ba loại trí tuệ đặc biệt đạt được qua thiền định sâu sắc: 1. Túc mạng minh (nhớ lại các kiếp trước), 2. Thiên nhãn minh (thấy sự chết và tái sinh của chúng sinh), 3. Lậu tận minh (biết rõ sự chấm dứt hoàn toàn các lậu hoặc).
  • Thiền / absorption / jhāna: Trạng thái tâm tập trung cao độ, vắng lặng, trong sáng và an lạc, đạt được qua việc thực hành thiền định. Có bốn cấp độ thiền chính được mô tả trong kinh điển.
  • Như Lai / Realized One / Tathāgata: Một danh hiệu tôn kính của Đức Phật, có nghĩa là "Người đã đến như vậy" hoặc "Người đã đi như vậy", chỉ người đã đạt đến chân lý tối thượng, giác ngộ hoàn toàn.