Skip to content

Phẩm về Sự Bảo Đảm

AN 4.71 Kinh Tinh Tấn (Padhānasutta)

"Này các Tỳ kheo, khi một vị Tỳ kheo có bốn pháp này, sự thực hành của vị ấy không thất bại, và vị ấy đã đặt nền tảng cho sự đoạn tận các phiền não (defilements / những ô nhiễm tâm). Bốn pháp ấy là gì? Đó là khi một vị Tỳ kheo có giới hạnh, đa văn (learned / hiểu biết rộng), tinh tấn (energetic / siêng năng), và có trí tuệ. Khi một vị Tỳ kheo có bốn pháp này, sự thực hành của vị ấy không thất bại, và vị ấy đã đặt nền tảng cho sự đoạn tận các phiền não."

AN 4.72 Kinh Chánh Kiến (Sammādiṭṭhisutta)

"Này các Tỳ kheo, khi một vị Tỳ kheo có bốn pháp này, sự thực hành của vị ấy không thất bại, và vị ấy đã đặt nền tảng cho sự đoạn tận các phiền não. Bốn pháp ấy là gì? Tư duy xuất ly (thoughts of renunciation / suy nghĩ về sự từ bỏ), tư duy vô sân (good will / suy nghĩ không giận dữ), và tư duy vô hại (harmlessness / suy nghĩ không làm hại); và chánh kiến (right view / thấy biết đúng đắn). Khi một vị Tỳ kheo có bốn pháp này, sự thực hành của vị ấy không thất bại, và vị ấy đã đặt nền tảng cho sự đoạn tận các phiền não."

AN 4.73 Kinh Bậc Chân Nhân (Sappurisasutta)

"Này các Tỳ kheo, một người không chân thật có thể được biết qua bốn đặc điểm. Bốn đặc điểm ấy là gì?

Trước hết, một người không chân thật nói xấu người khác dù không được hỏi, huống nữa là khi được hỏi. Nhưng khi bị gặng hỏi, họ nói xấu người khác đầy đủ chi tiết, không bỏ sót điều gì. Đó là cách để biết rằng đây là một người không chân thật.

Hơn nữa, một người không chân thật không nói tốt về người khác dù được hỏi, huống nữa là khi không được hỏi. Nhưng khi bị gặng hỏi, họ nói tốt về người khác mà không đầy đủ chi tiết, bỏ sót nhiều điều. Đó là cách để biết rằng đây là một người không chân thật.

Hơn nữa, một người không chân thật không nói xấu về chính mình dù được hỏi, huống nữa là khi không được hỏi. Nhưng khi bị gặng hỏi, họ nói xấu về chính mình mà không đầy đủ chi tiết, bỏ sót nhiều điều. Đó là cách để biết rằng đây là một người không chân thật.

Hơn nữa, một người không chân thật nói tốt về chính mình dù không được hỏi, huống nữa là khi được hỏi. Nhưng khi bị gặng hỏi, họ nói tốt về chính mình đầy đủ chi tiết, không bỏ sót điều gì. Đó là cách để biết rằng đây là một người không chân thật. Một người không chân thật có thể được biết qua bốn đặc điểm này.

Một người chân thật có thể được biết qua bốn đặc điểm. Bốn đặc điểm ấy là gì?

Trước hết, một người chân thật không nói xấu người khác dù được hỏi, huống nữa là khi không được hỏi. Nhưng khi bị gặng hỏi, họ nói xấu người khác mà không đầy đủ chi tiết, bỏ sót nhiều điều. Đó là cách để biết rằng đây là một người chân thật.

Hơn nữa, một người chân thật nói tốt về người khác dù không được hỏi, huống nữa là khi được hỏi. Nhưng khi bị gặng hỏi, họ nói tốt về người khác đầy đủ chi tiết, không bỏ sót điều gì. Đó là cách để biết rằng đây là một người chân thật.

Hơn nữa, một người chân thật nói xấu về chính mình dù không được hỏi, huống nữa là khi được hỏi. Nhưng khi bị gặng hỏi, họ nói xấu về chính mình đầy đủ chi tiết, không bỏ sót điều gì. Đó là cách để biết rằng đây là một người chân thật.

Hơn nữa, một người chân thật không nói tốt về chính mình dù được hỏi, huống nữa là khi không được hỏi. Nhưng khi bị gặng hỏi, họ nói tốt về chính mình mà không đầy đủ chi tiết, bỏ sót nhiều điều. Đó là cách để biết rằng đây là một người chân thật. Một người chân thật có thể được biết qua bốn đặc điểm này.

Ví như một nàng dâu vào ngày hay đêm đầu tiên được đưa về nhà chồng. Ngay lập tức, nàng thiết lập lòng tàm (conscience / hổ thẹn tội lỗi) và úy (prudence / ghê sợ tội lỗi) sắc bén đối với cha mẹ chồng, chồng mình, và ngay cả với những người hầu, người làm công, nhân viên. Nhưng sau một thời gian, do sống chung và thân quen, nàng thậm chí sẽ nói với cha mẹ chồng, hay với chồng mình: 'Đi đi! Ông/Bà biết gì chứ?' Cũng vậy, vào ngày hay đêm một vị Tỳ kheo mới xuất gia, từ bỏ đời sống thế tục, vị ấy ngay lập tức thiết lập lòng tàm và úy sắc bén đối với các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, và ngay cả những người làm công trong tự viện và các sa di. Nhưng sau một thời gian, do sống chung và thân quen, vị ấy thậm chí sẽ nói với thầy tế độ (tutor / thầy dạy trực tiếp) hay thầy yết ma (mentor / thầy hướng dẫn) của mình: 'Đi đi! Thầy biết gì chứ?'

Vì vậy, các thầy nên tu tập như sau: 'Chúng ta sẽ sống với tâm như một nàng dâu mới.' Đó là cách các thầy nên tu tập."

AN 4.74 Kinh Tối Thắng (1) (Paṭhamaaggasutta)

"Này các Tỳ kheo, bốn pháp này là tối thắng. Bốn pháp ấy là gì? Giới hạnh tối thắng, thiền định (immersion / sự tập trung tâm) tối thắng, tuệ (wisdom / sự hiểu biết sáng suốt) tối thắng, và giải thoát (freedom / sự tự do khỏi khổ đau) tối thắng. Đây là bốn pháp tối thắng."

AN 4.75 Kinh Tối Thắng (2) (Dutiyaaggasutta)

"Này các Tỳ kheo, bốn pháp này là tối thắng. Bốn pháp ấy là gì? Sắc (form / hình thể vật chất) tối thắng, thọ (feeling / cảm giác) tối thắng, tưởng (perception / sự nhận biết) tối thắng, và hữu (existence / sự tồn tại, sự hiện hữu) tối thắng. Đây là bốn pháp tối thắng."

AN 4.76 Kinh Tại Kusinārā (Kusinārasutta)

Một thời Thế Tôn trú tại Kusinārā, giữa hai cây sala trong rừng sala của dòng họ Malla tại Upavattana, vào lúc Ngài sắp đại bát-niết-bàn (full extinguishment / sự tịch diệt hoàn toàn vĩ đại). Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỳ kheo: "Này các Tỳ kheo!"

"Bạch Thế Tôn," các vị ấy vâng đáp. Thế Tôn nói điều này:

"Có thể có một Tỳ kheo nào đó còn nghi ngờ hay phân vân về Phật, về Pháp, về Tăng đoàn (Saṅgha / cộng đồng tu sĩ), về đạo (path / con đường tu tập), hay về pháp hành (practice / sự thực hành giáo pháp). Vậy thì hãy hỏi đi, này các Tỳ kheo! Đừng để sau này phải hối tiếc, nghĩ rằng: 'Bậc Đạo Sư đã ở trước mặt chúng ta mà chúng ta đã không thể hỏi trực tiếp Ngài.'" Khi được nói vậy, các Tỳ kheo vẫn im lặng.

Lần thứ hai, Thế Tôn gọi các Tỳ kheo: ... Lần thứ hai, các Tỳ kheo vẫn im lặng.

Lần thứ ba, Thế Tôn gọi các Tỳ kheo: ... Lần thứ ba, các Tỳ kheo vẫn im lặng.

Rồi Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:

"Này các Tỳ kheo, có lẽ vì kính trọng Bậc Đạo Sư mà các thầy không hỏi. Vậy thì hãy để bạn nói với bạn." Khi được nói vậy, các Tỳ kheo vẫn im lặng. Bấy giờ, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:

"Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn, thật hy hữu thay! Con hoàn toàn tin chắc rằng trong Tăng đoàn này, không có một Tỳ kheo nào còn nghi ngờ hay phân vân về Phật, về Pháp, về Tăng đoàn, về đạo, hay về pháp hành."

"Này Ānanda, ông nói lên từ đức tin. Nhưng Như Lai (Realized One / bậc đã đến như vậy, danh hiệu Phật) biết rằng trong Tăng đoàn này, không có một Tỳ kheo nào còn nghi ngờ hay phân vân về Phật, về Pháp, về Tăng đoàn, về đạo, hay về pháp hành. Ngay cả vị Tỳ kheo cuối cùng trong năm trăm vị Tỳ kheo này cũng là bậc nhập lưu (stream-enterer / người đã vào dòng thánh), không còn bị tái sinh vào cõi dữ (liable to be reborn in the underworld / bị tái sinh vào cõi khổ), chắc chắn đạt đến giác ngộ (bound for awakening / nhất định sẽ giác ngộ)."

AN 4.77 Kinh Bất Khả Tư Nghì (Acinteyyasutta)

"Này các Tỳ kheo, có bốn điều bất khả tư nghì (unthinkable / không thể nghĩ bàn) này. Không nên suy nghĩ về chúng, và bất cứ ai cố gắng suy nghĩ về chúng sẽ trở nên điên loạn hoặc bực bội. Bốn điều ấy là gì?

Phạm vi của chư Phật ...

Phạm vi của người nhập thiền định (absorption / trạng thái tâm định sâu) ...

Nghiệp báo (results of deeds / kết quả của hành động thiện ác) ...

Thế gian luận (speculation about the world / sự bàn luận, suy đoán về thế giới) ...

Đây là bốn điều bất khả tư nghì. Không nên suy nghĩ về chúng, và bất cứ ai cố gắng suy nghĩ về chúng sẽ trở nên điên loạn hoặc bực bội."

AN 4.78 Kinh Cúng Dường (Dakkhiṇasutta)

"Này các Tỳ kheo, có bốn cách thanh tịnh hóa một vật thí (religious donation / vật phẩm cúng dường). Bốn cách ấy là gì? Có vật thí được thanh tịnh hóa bởi người cho, không phải người nhận. Có vật thí được thanh tịnh hóa bởi người nhận, không phải người cho. Có vật thí không được thanh tịnh hóa bởi cả người cho lẫn người nhận. Có vật thí được thanh tịnh hóa bởi cả người cho lẫn người nhận.

Và thế nào là vật thí được thanh tịnh hóa bởi người cho, không phải người nhận? Đó là khi người cho có giới hạnh, thiện đức, nhưng người nhận không có giới hạnh, ác đức.

Và thế nào là vật thí được thanh tịnh hóa bởi người nhận, không phải người cho? Đó là khi người cho không có giới hạnh, ác đức, nhưng người nhận có giới hạnh, thiện đức.

Và thế nào là vật thí không được thanh tịnh hóa bởi cả người cho lẫn người nhận? Đó là khi cả người cho và người nhận đều không có giới hạnh, ác đức.

Và thế nào là vật thí được thanh tịnh hóa bởi cả người cho lẫn người nhận? Đó là khi cả người cho và người nhận đều có giới hạnh, thiện đức.

Đây là bốn cách thanh tịnh hóa một vật thí."

AN 4.79 Kinh Kinh Doanh (Vaṇijjasutta)

Bấy giờ, Tôn giả Sāriputta đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên và bạch rằng:

"Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì mà đối với những người khác nhau, cùng một loại công việc kinh doanh lại có thể thất bại, trong khi một công việc khác không được như mong đợi, một công việc khác được như mong đợi, và một công việc khác lại vượt quá mong đợi?"

"Này Sāriputta, trường hợp một người đi đến một vị sa môn (ascetic / tu sĩ khổ hạnh) hay bà la môn (brahmin / tu sĩ Bà la môn giáo) và mời họ yêu cầu những gì họ cần. Nhưng người ấy không cho những gì được yêu cầu. Khi người ấy mệnh chung, nếu tái sinh về cõi này, bất cứ công việc kinh doanh nào họ làm đều thất bại.

Trường hợp một người đi đến một vị sa môn hay bà la môn và mời họ yêu cầu những gì họ cần. Người ấy cho những gì được yêu cầu, nhưng không được như mong đợi. Khi người ấy mệnh chung, nếu tái sinh về cõi này, bất cứ công việc kinh doanh nào họ làm đều không được như mong đợi.

Trường hợp một người đi đến một vị sa môn hay bà la môn và mời họ yêu cầu những gì họ cần. Người ấy cho những gì được yêu cầu, được như mong đợi. Khi người ấy mệnh chung, nếu tái sinh về cõi này, bất cứ công việc kinh doanh nào họ làm đều được như mong đợi.

Trường hợp một người đi đến một vị sa môn hay bà la môn và mời họ yêu cầu những gì họ cần. Người ấy cho những gì được yêu cầu, vượt quá mong đợi. Khi người ấy mệnh chung, nếu tái sinh về cõi này, bất cứ công việc kinh doanh nào họ làm đều vượt quá mong đợi.

Đây là nhân, đây là duyên tại sao đối với những người khác nhau, cùng một loại công việc kinh doanh lại có thể thất bại, trong khi một công việc khác không được như mong đợi, một công việc khác được như mong đợi, và một công việc khác lại vượt quá mong đợi."

AN 4.80 Kinh Kamboja (Kambojasutta)

Một thời Thế Tôn trú gần Kosambī, tại tu viện Ghosita. Bấy giờ, Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên và bạch rằng:

"Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì mà phụ nữ không tham dự các cuộc họp hội đồng, không làm việc mưu sinh, hay không đi đến xứ Kamboja?"

"Này Ānanda, phụ nữ sân nhiều (irritable / hay giận), ganh tị (jealous / đố kỵ), xan tham (stingy / keo kiệt, bỏn xẻn), và thiểu trí (unintelligent / kém trí tuệ). Đây là nhân, đây là duyên tại sao phụ nữ không tham dự các cuộc họp hội đồng, không làm việc mưu sinh, hay không đi đến xứ Kamboja."