Skip to content

Phẩm về Tác Ý

AN 4.171 Tác Ý (ý muốn) Kinh ý muốn

"Này các Tỳ kheo, khi thân còn tồn tại, ý muốn (intention / tâm sở tư, chủ ý) tạo ra thân nghiệp (bodily action / hành động qua thân) làm phát sinh khổ và lạc cho chính mình. Khi lời nói còn tồn tại, ý muốn tạo ra khẩu nghiệp (verbal action / hành động qua lời nói) làm phát sinh khổ và lạc cho chính mình. Khi tâm còn tồn tại, ý muốn tạo ra ý nghiệp (mental action / hành động qua ý nghĩ) làm phát sinh khổ và lạc cho chính mình. Nhưng những điều này chỉ xảy ra khi do duyên (conditioned by / bị chi phối bởi, phụ thuộc vào) vô minh (ignorance / sự không hiểu biết Tứ Thánh Đế).

Do chính mình lựa chọn tạo ra thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, mà do duyên ấy, khổ và lạc phát sinh cho chính mình. Hoặc do người khác lựa chọn... Do mình có ý thức lựa chọn... Hoặc do mình vô ý thức lựa chọn...

Vô minh bao gồm trong tất cả những điều này. Nhưng khi vô minh phai nhạt và đoạn diệt không còn dư tàn, thì không còn thân, không còn lời nói, không còn tâm, mà do duyên ấy, khổ và lạc phát sinh cho chính mình. Không còn mảnh đất, không còn nền tảng, không còn phạm vi, không còn cơ sở, mà do duyên ấy, khổ và lạc phát sinh cho chính mình.

Này các Tỳ kheo, có bốn loại sự tái sanh (reincarnation in a life-form / sự sinh lại vào một cảnh giới) trong một loài hữu tình. Bốn loại nào?

1. Có sự tái sanh trong một loài hữu tình nơi ý muốn của chính mình có hiệu lực, chứ không phải của người khác.
2. Có sự tái sanh trong một loài hữu tình nơi ý muốn của người khác có hiệu lực, chứ không phải của chính mình.
3. Có sự tái sanh trong một loài hữu tình nơi ý muốn của cả chính mình và người khác đều có hiệu lực.
4. Có sự tái sanh trong một loài hữu tình nơi ý muốn của cả chính mình và người khác đều không có hiệu lực.

Đó là bốn loại tái sanh trong một loài hữu tình."

Khi Ngài nói vậy, Tôn giả Sāriputta bạch Phật:

"Bạch Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa chi tiết lời dạy vắn tắt của Đức Phật như sau: Trường hợp tái sanh trong một loài hữu tình nơi ý muốn của chính mình có hiệu lực, không phải của người khác. Những chúng sanh (sentient beings / các loài hữu tình) đó mệnh chung từ cõi (realm / cảnh giới) ấy do ý muốn của chính họ. Trường hợp tái sanh trong một loài hữu tình nơi ý muốn của người khác có hiệu lực, không phải của chính mình. Những chúng sanh đó mệnh chung từ cõi ấy do ý muốn của người khác. Trường hợp tái sanh trong một loài hữu tình nơi ý muốn của cả chính mình và người khác đều có hiệu lực. Những chúng sanh đó mệnh chung từ cõi ấy do ý muốn của cả chính họ và người khác.

Nhưng bạch Thế Tôn, trường hợp tái sanh trong một loài hữu tình nơi ý muốn của cả chính mình và người khác đều không có hiệu lực, điều này chỉ đến loại chư thiên nào?"

"Này Sāriputta, điều đó chỉ đến các vị trời tái sanh trong cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ (dimension of neither perception nor non-perception / cảnh giới không có tưởng cũng không phải không có tưởng)."

"Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì mà một số chúng sanh mệnh chung từ cõi ấy là bậc nhất lai (returner / người chỉ còn tái sanh một lần nữa vào cõi Dục), trở lại nơi này, trong khi những người khác là bậc bất lai (non-returner / người không còn tái sanh lại cõi Dục), không trở lại?"

"Này Sāriputta, xét trường hợp một người chưa từ bỏ các hạ phần kiết sử (lower fetters / năm trói buộc đầu tiên: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân hận). Ngay trong đời này, họ nhập và an trú trong cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Họ thưởng thức, ưa thích và thấy thỏa mãn trong đó. Nếu họ an trú trong đó, chuyên tâm vào đó, và thường xuyên thiền định về nó mà không đánh mất, khi chết, họ được tái sanh cùng chúng chư thiên cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Khi mệnh chung từ đó, họ là bậc nhất lai, trở lại nơi này.

Này Sāriputta, xét trường hợp một người đã từ bỏ các hạ phần kiết sử. Ngay trong đời này, họ nhập và an trú trong cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Họ thưởng thức, ưa thích và thấy thỏa mãn trong đó. Nếu họ an trú trong đó, chuyên tâm vào đó, và thường xuyên thiền định về nó mà không đánh mất, khi chết, họ được tái sanh cùng chúng chư thiên cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Khi mệnh chung từ đó, họ là bậc bất lai, không trở lại nơi này.

Đây là nhân, đây là duyên tại sao một số chúng sanh mệnh chung từ cõi ấy là bậc nhất lai, trở lại nơi này, trong khi những người khác là bậc bất lai, không trở lại."

AN 4.172 Sāriputta Đạt Được Phân Tích Pháp Kinh Vibhatti

Khi ấy, Tôn giả Sāriputta nói với các Tỳ kheo: "Thưa các Hiền giả Tỳ kheo!"

"Thưa Hiền giả," họ đáp. Tôn giả Sāriputta nói:

"Thưa các Hiền giả, tôi đã chứng ngộ nghĩa phân tích (textual analysis of the meaning / tuệ phân tích ý nghĩa)—từng phần, từng chữ—sau nửa tháng xuất gia. Tôi giải thích, giảng dạy, khẳng định, thiết lập, làm rõ, phân tích và trình bày nó bằng nhiều cách. Ai có nghi ngờ hay không chắc chắn, hãy hỏi tôi, tôi sẽ trả lời. Bậc Đạo Sư của chúng ta đang hiện diện, Ngài là người rất thiện xảo trong giáo pháp của chúng ta.

Tôi đã chứng ngộ pháp phân tích (textual analysis of the text / tuệ phân tích pháp)—từng phần, từng chữ—sau nửa tháng xuất gia. ...

Tôi đã chứng ngộ từ ngữ phân tích (textual analysis of terminology / tuệ phân tích ngôn ngữ)—từng phần, từng chữ—sau nửa tháng xuất gia. ...

Tôi đã chứng ngộ biện tài phân tích (textual analysis of eloquence / tuệ phân tích sự ứng đối)—từng phần, từng chữ—sau nửa tháng xuất gia. Tôi giải thích, giảng dạy, khẳng định, thiết lập, làm rõ, phân tích và trình bày nó bằng nhiều cách. Ai có nghi ngờ hay không chắc chắn, hãy hỏi tôi, tôi sẽ trả lời. Bậc Đạo Sư của chúng ta đang hiện diện, Ngài là người rất thiện xảo trong giáo pháp của chúng ta."

AN 4.173 Với Mahākoṭṭhita Kinh Mahākoṭṭhika

Khi ấy, Tôn giả Mahākoṭṭhita đến gặp Tôn giả Sāriputta và chào hỏi xã giao. Sau khi chào hỏi và nói chuyện thân mật, Tôn giả Mahākoṭṭhita ngồi xuống một bên và nói với Tôn giả Sāriputta:

"Thưa Hiền giả, khi sáu xứ xúc (six fields of contact / sáu nơi phát sinh sự tiếp xúc: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đã phai nhạt và đoạn diệt không còn dư tàn, có cái gì khác vẫn tồn tại không?"

"Đừng nói như vậy, thưa Hiền giả."

"Có cái gì khác không còn tồn tại nữa không?"

"Đừng nói như vậy, thưa Hiền giả."

"Có cái gì khác vừa còn tồn tại vừa không còn tồn tại nữa không?"

"Đừng nói như vậy, thưa Hiền giả."

"Có cái gì khác vừa không còn tồn tại vừa không phải không còn tồn tại nữa không?"

"Đừng nói như vậy, thưa Hiền giả."

"Thưa Hiền giả, khi được hỏi rằng—khi sáu xứ xúc đã phai nhạt và đoạn diệt không còn dư tàn—có cái gì khác vẫn tồn tại không, Ngài nói 'đừng nói như vậy'. Khi được hỏi có cái gì khác không còn tồn tại nữa không, Ngài nói 'đừng nói như vậy'. Khi được hỏi có cái gì khác vừa còn tồn tại vừa không còn tồn tại nữa không, Ngài nói 'đừng nói như vậy'. Khi được hỏi có cái gì khác vừa không còn tồn tại vừa không phải không còn tồn tại nữa không, Ngài nói 'đừng nói như vậy'. Vậy chúng ta nên hiểu ý nghĩa của lời nói này như thế nào?"

"Nếu Hiền giả nói rằng, 'Khi sáu xứ xúc đã phai nhạt và đoạn diệt không còn dư tàn, có cái gì khác vẫn tồn tại', là Hiền giả đang hí luận điều không thể hí luận (proliferating the unproliferated / bàn luận, suy diễn về cái vượt ngoài sự suy diễn). Nếu Hiền giả nói rằng 'có cái gì khác không còn tồn tại nữa', là Hiền giả đang hí luận điều không thể hí luận. Nếu Hiền giả nói rằng 'có cái gì khác vừa còn tồn tại vừa không còn tồn tại nữa', là Hiền giả đang hí luận điều không thể hí luận. Nếu Hiền giả nói rằng 'có cái gì khác vừa không còn tồn tại vừa không phải không còn tồn tại nữa', là Hiền giả đang hí luận điều không thể hí luận. Phạm vi của sự hí luận (proliferation / sự suy diễn, vọng tưởng) mở rộng đến đâu thì phạm vi của sáu xứ xúc mở rộng đến đó. Phạm vi của sáu xứ xúc mở rộng đến đâu thì phạm vi của sự hí luận mở rộng đến đó. Khi sáu xứ xúc phai nhạt và đoạn diệt không còn dư tàn, sự hí luận dừng lại và lắng dịu."

AN 4.174 Với Ānanda Kinh Ānanda

Khi ấy, Tôn giả Ānanda đến gặp Tôn giả Mahākoṭṭhita và chào hỏi xã giao. Sau khi chào hỏi và nói chuyện thân mật, Tôn giả Ānanda ngồi xuống một bên và nói với Tôn giả Mahākoṭṭhita:

"Thưa Hiền giả, khi sáu xứ xúc này đã phai nhạt và đoạn diệt không còn dư tàn, có cái gì khác tồn tại không?"

"Đừng nói như vậy, thưa Hiền giả."

"Có cái gì khác không còn tồn tại nữa không?"

"Đừng nói như vậy, thưa Hiền giả."

"Có cái gì khác vừa còn tồn tại vừa không còn tồn tại nữa không?"

"Đừng nói như vậy, thưa Hiền giả."

"Có cái gì khác vừa không còn tồn tại vừa không phải không còn tồn tại nữa không?"

"Đừng nói như vậy, thưa Hiền giả."

"Thưa Hiền giả, khi được hỏi những câu này, Ngài nói 'đừng nói như vậy'. ... Vậy chúng ta nên hiểu ý nghĩa của lời nói này như thế nào?"

"Nếu Hiền giả nói rằng 'khi sáu xứ xúc đã phai nhạt và đoạn diệt không còn dư tàn, có cái gì khác tồn tại', là Hiền giả đang hí luận điều không thể hí luận. Nếu Hiền giả nói rằng 'có cái gì khác không còn tồn tại nữa', là Hiền giả đang hí luận điều không thể hí luận. Nếu Hiền giả nói rằng 'có cái gì khác vừa còn tồn tại vừa không còn tồn tại nữa', là Hiền giả đang hí luận điều không thể hí luận. Nếu Hiền giả nói rằng 'có cái gì khác vừa không còn tồn tại vừa không phải không còn tồn tại nữa', là Hiền giả đang hí luận điều không thể hí luận. Phạm vi của sự hí luận mở rộng đến đâu thì phạm vi của sáu xứ xúc mở rộng đến đó. Phạm vi của sáu xứ xúc mở rộng đến đâu thì phạm vi của sự hí luận mở rộng đến đó. Khi sáu xứ xúc phai nhạt và đoạn diệt không còn dư tàn, sự hí luận dừng lại và lắng dịu."

AN 4.175 Với Upavāṇa Kinh Upavāṇa

Khi ấy, Tôn giả Upavāna đến gặp Tôn giả Sāriputta và chào hỏi xã giao. Sau khi chào hỏi và nói chuyện thân mật, Tôn giả Upavāna ngồi xuống một bên và nói với Tôn giả Sāriputta:

"Thưa Hiền giả Sāriputta, có phải Ngài trở thành người chấm dứt khổ đau (terminator / người đã kết thúc khổ đau) là nhờ minh (knowledge / trí tuệ, sự hiểu biết đúng đắn) không?"

"Không phải vậy, thưa Hiền giả."

"Có phải Ngài trở thành người chấm dứt khổ đau là nhờ hạnh (conduct / hành vi, cách cư xử, giới hạnh) không?"

"Không phải vậy, thưa Hiền giả."

"Có phải Ngài trở thành người chấm dứt khổ đau là nhờ cả minh và hạnh không?"

"Không phải vậy, thưa Hiền giả."

"Có phải Ngài trở thành người chấm dứt khổ đau là vì một lý do nào khác ngoài minh và hạnh không?"

"Không phải vậy, thưa Hiền giả."

"Thưa Hiền giả Sāriputta, khi được hỏi có phải Ngài trở thành người chấm dứt khổ đau là nhờ minh hay hạnh hay cả minh và hạnh, hay vì một lý do nào khác, Ngài đều nói 'không phải vậy'. Vậy làm thế nào Ngài trở thành người chấm dứt khổ đau?"

"Thưa Hiền giả, nếu trở thành người chấm dứt khổ đau là nhờ minh, thì ngay cả người còn nhiên liệu cho chấp thủ (still has fuel for grasping / vẫn còn nền tảng cho sự chấp thủ) cũng có thể là người chấm dứt khổ đau. Nếu trở thành người chấm dứt khổ đau là nhờ hạnh, thì ngay cả người còn nhiên liệu cho chấp thủ cũng có thể là người chấm dứt khổ đau. Nếu trở thành người chấm dứt khổ đau là nhờ cả minh và hạnh, thì ngay cả người còn nhiên liệu cho chấp thủ cũng có thể là người chấm dứt khổ đau. Nếu trở thành người chấm dứt khổ đau là vì một lý do nào khác ngoài minh và hạnh, thì ngay cả phàm phu (ordinary person / người chưa chứng Thánh quả) cũng có thể là người chấm dứt khổ đau. Vì phàm phu thiếu cả minh và hạnh. Thưa Hiền giả, người thiếu giới hạnh (good conduct / hành vi đạo đức tốt đẹp) thì không biết và thấy các pháp đúng như thật. Người thành tựu giới hạnh thì biết và thấy các pháp đúng như thật. Do biết và thấy các pháp đúng như thật, người ấy là người chấm dứt khổ đau."

AN 4.176 Khát Vọng Kinh Āyācana

"Này các Tỳ kheo, một Tỳ kheo có lòng tin chân chánh nên khát vọng: 'Mong sao ta được như Sāriputta và Moggallāna!' Đây là tiêu chuẩn và thước đo cho các đệ tử Tỳ kheo của Ta, đó là Sāriputta và Moggallāna.

Một Tỳ kheo ni có lòng tin chân chánh nên khát vọng: 'Mong sao ta được như Tỳ kheo ni Khemā và Uppalavaṇṇā!' Đây là tiêu chuẩn và thước đo cho các đệ tử Tỳ kheo ni của Ta, đó là Tỳ kheo ni Khemā và Uppalavaṇṇā.

Một nam cư sĩ có lòng tin chân chánh nên khát vọng: 'Mong sao ta được như gia chủ Citta và Hatthaka ở Āḷavī!' Đây là tiêu chuẩn và thước đo cho các đệ tử nam cư sĩ của Ta, đó là gia chủ Citta và Hatthaka ở Āḷavī.

Một nữ cư sĩ có lòng tin chân chánh nên khát vọng: 'Mong sao ta được như nữ cư sĩ Khujjuttarā và Veḷukaṇṭakī, mẹ của Nanda!' Đây là tiêu chuẩn và thước đo cho các đệ tử nữ cư sĩ của Ta, đó là nữ cư sĩ Khujjuttarā và Veḷukaṇṭakī, mẹ của Nanda."

AN 4.177 Với Rāhula Kinh Rāhula

Khi ấy, Tôn giả Rāhula đến gặp Đức Phật, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên. Đức Phật nói với Tôn giả:

"Này Rāhula, địa đại (earth element / yếu tố đất) bên trong và địa đại bên ngoài chỉ là địa đại. Điều này cần được thấy đúng như thật bằng chánh kiến (right understanding / sự hiểu biết đúng đắn) như sau: 'Cái này không phải của tôi, tôi không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của tôi.' Khi con thấy đúng như thật bằng chánh kiến, con sẽ nhàm chán (disillusioned / không còn ham muốn, thấy rõ sự thật) đối với địa đại, ly tham (detaching the mind / từ bỏ lòng tham ái) khỏi địa đại.

Thủy đại (water element / yếu tố nước) bên trong và thủy đại bên ngoài chỉ là thủy đại. Điều này cần được thấy đúng như thật bằng chánh kiến như sau: 'Cái này không phải của tôi, tôi không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của tôi.' Khi con thấy đúng như thật bằng chánh kiến, con sẽ nhàm chán đối với thủy đại, ly tham khỏi thủy đại.

Hỏa đại (fire element / yếu tố lửa) bên trong và hỏa đại bên ngoài chỉ là hỏa đại. Điều này cần được thấy đúng như thật bằng chánh kiến như sau: 'Cái này không phải của tôi, tôi không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của tôi.' Khi con thấy đúng như thật bằng chánh kiến, con sẽ nhàm chán đối với hỏa đại, ly tham khỏi hỏa đại.

Phong đại (air element / yếu tố gió) bên trong và phong đại bên ngoài chỉ là phong đại. Điều này cần được thấy đúng như thật bằng chánh kiến như sau: 'Cái này không phải của tôi, tôi không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của tôi.' Khi con thấy đúng như thật bằng chánh kiến, con sẽ nhàm chán đối với phong đại, ly tham khỏi phong đại.

Khi một Tỳ kheo thấy bốn đại này không phải là tự ngã, không thuộc về tự ngã, vị ấy được gọi là Tỳ kheo đã cắt đứt ái dục, cởi bỏ kiết sử (fetters / những trói buộc tâm linh), và bằng cách đoạn trừ hoàn toàn mạn (conceit / lòng kiêu ngạo, ngã mạn), đã chấm dứt khổ (suffering / sự đau khổ, bất toại nguyện)."

AN 4.178 Đầm Lầy Kinh Jambālī

"Này các Tỳ kheo, có bốn hạng người này được tìm thấy ở đời. Bốn hạng nào?

Xét trường hợp một Tỳ kheo nhập và an trú trong một tâm giải thoát an tịnh (peaceful release of the heart / trạng thái tâm được giải thoát, yên bình). Vị ấy chú tâm vào sự diệt tận thân kiến (cessation of substantial reality / sự chấm dứt hoàn toàn nền tảng của tự ngã), nhưng tâm vị ấy không hướng đến, không tin tưởng, không an trú, và không quyết định vào đó. Không thể mong đợi Tỳ kheo ấy chứng ngộ sự diệt tận thân kiến. Ví như một người dùng bàn tay dính nhựa cây nắm lấy cành cây. Tay người ấy sẽ dính chặt, bám lấy, và bị trói buộc vào đó. Cũng vậy, xét trường hợp một Tỳ kheo nhập và an trú trong một tâm giải thoát an tịnh. Vị ấy chú tâm vào sự diệt tận thân kiến, nhưng tâm vị ấy không hướng đến, không tin tưởng, không an trú, và không quyết định vào đó. Không thể mong đợi Tỳ kheo ấy chứng ngộ sự diệt tận thân kiến.

Tiếp theo, xét trường hợp một Tỳ kheo nhập và an trú trong một tâm giải thoát an tịnh. Vị ấy chú tâm vào sự diệt tận thân kiến, và tâm vị ấy hướng đến, tin tưởng, an trú, và quyết định vào đó. Có thể mong đợi Tỳ kheo ấy chứng ngộ sự diệt tận thân kiến. Ví như một người dùng bàn tay sạch nắm lấy cành cây. Tay người ấy sẽ không dính chặt, không bám lấy, không bị trói buộc vào đó. Cũng vậy, xét trường hợp một Tỳ kheo nhập và an trú trong một tâm giải thoát an tịnh. Vị ấy chú tâm vào sự diệt tận thân kiến, và tâm vị ấy hướng đến, tin tưởng, an trú, và quyết định vào đó. Có thể mong đợi Tỳ kheo ấy chứng ngộ sự diệt tận thân kiến.

Tiếp theo, xét trường hợp một Tỳ kheo nhập và an trú trong một tâm giải thoát an tịnh. Vị ấy chú tâm vào việc phá vỡ vô minh (smashing ignorance / loại bỏ hoàn toàn sự không hiểu biết), nhưng tâm vị ấy không hướng đến, không tin tưởng, không an trú, và không quyết định vào đó. Không thể mong đợi Tỳ kheo ấy phá vỡ vô minh. Ví như có một cái đầm lầy tù đọng nhiều năm. Rồi có người chặn các dòng nước chảy vào và mở các cống thoát nước ra, nhưng trời lại không mưa đủ. Không thể mong đợi cái đầm lầy ấy vỡ bờ. Cũng vậy, xét trường hợp một Tỳ kheo nhập và an trú trong một tâm giải thoát an tịnh nào đó. Vị ấy chú tâm vào việc phá vỡ vô minh, nhưng tâm vị ấy không hướng đến, không tin tưởng, không an trú, và không quyết định vào đó. Không thể mong đợi Tỳ kheo ấy phá vỡ vô minh.

Tiếp theo, xét trường hợp một Tỳ kheo nhập và an trú trong một tâm giải thoát an tịnh. Vị ấy chú tâm vào việc phá vỡ vô minh, và tâm vị ấy hướng đến, tin tưởng, an trú, và quyết định vào đó. Có thể mong đợi Tỳ kheo ấy phá vỡ vô minh. Ví như có một cái đầm lầy tù đọng nhiều năm. Rồi có người mở các dòng nước chảy vào và chặn các cống thoát nước lại, và trời mưa rất nhiều. Có thể mong đợi cái đầm lầy ấy vỡ bờ. Cũng vậy, xét trường hợp một Tỳ kheo nhập và an trú trong một tâm giải thoát an tịnh nào đó. Vị ấy chú tâm vào việc phá vỡ vô minh, và tâm vị ấy hướng đến, tin tưởng, an trú, và quyết định vào đó. Có thể mong đợi Tỳ kheo ấy phá vỡ vô minh.

Đó là bốn hạng người được tìm thấy ở đời."

AN 4.179 Niết Bàn Kinh Nibbāna

Khi ấy, Tôn giả Ānanda đến gặp Tôn giả Sāriputta và chào hỏi xã giao. Sau khi chào hỏi và nói chuyện thân mật, Tôn giả Ānanda ngồi xuống một bên và nói với Tôn giả Sāriputta:

"Thưa Hiền giả Sāriputta, do nhân gì, do duyên gì mà một số chúng sanh không đạt Niết-bàn (fully extinguished / đạt Niết-bàn hoàn toàn) ngay trong đời này?"

"Thưa Hiền giả Ānanda, đó là vì một số chúng sanh không thực sự hiểu rõ những tưởng (perceptions / sự tri nhận, ghi nhận) nào đưa đến tổn giảm (make things worse / làm cho tệ đi), những tưởng nào đưa đến trạng thái dừng lại (keep things steady / duy trì trạng thái hiện tại), những tưởng nào đưa đến thù thắng (lead to distinction / dẫn đến sự tiến bộ, vượt trội), và những tưởng nào đưa đến thể nhập (lead to penetration / dẫn đến sự thấu suốt, chứng ngộ). Đó là nhân, đó là duyên tại sao một số chúng sanh không đạt Niết-bàn ngay trong đời này."

"Thưa Hiền giả Sāriputta, do nhân gì, do duyên gì mà một số chúng sanh đạt Niết-bàn ngay trong đời này?"

"Thưa Hiền giả Ānanda, đó là vì một số chúng sanh thực sự hiểu rõ những tưởng nào đưa đến tổn giảm, những tưởng nào đưa đến trạng thái dừng lại, những tưởng nào đưa đến thù thắng, và những tưởng nào đưa đến thể nhập. Đó là nhân, đó là duyên tại sao một số chúng sanh đạt Niết-bàn ngay trong đời này."

AN 4.180 Bốn Đại Tham Chiếu Kinh Mahāpadesa

Một thời Đức Phật trú gần thành phố Bhoga, tại đền thờ cây Ānanda.

Tại đó, Đức Phật gọi các Tỳ kheo: "Này các Tỳ kheo!"

"Bạch Thế Tôn," họ đáp.

Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, Ta sẽ dạy các con bốn Đại Tham Chiếu (great references / những tiêu chuẩn lớn để tham chiếu giáo pháp). Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói."

"Vâng, bạch Thế Tôn," họ đáp. Đức Phật dạy:

"Này các Tỳ kheo, bốn Đại Tham Chiếu là gì?

Xét trường hợp một Tỳ kheo nói: 'Thưa Hiền giả, tôi đã nghe và học điều này trực tiếp từ Đức Thế Tôn (Blessed One / bậc được tôn kính): đây là giáo pháp, đây là luật (training / giới luật), đây là lời dạy của Bậc Đạo Sư (Teacher's instruction / giáo huấn của Đức Phật).' Các con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ lời nói của Tỳ kheo ấy. Thay vào đó, sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời và câu ấy, các con nên đối chiếu chúng với kinh (discourse / bài kinh) và xem xét chúng trong luật. Nếu chúng không phù hợp với kinh và không được thể hiện trong luật, các con nên đi đến kết luận: 'Rõ ràng đây không phải là lời của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán (perfected one / người đã hoàn thiện, giác ngộ), bậc Chánh Đẳng Giác (fully awakened Buddha / người tự mình giác ngộ hoàn toàn). Tỳ kheo ấy đã ghi nhớ sai.' Và vì vậy các con nên từ bỏ nó.

Xét một Tỳ kheo khác nói: 'Thưa Hiền giả, tôi đã nghe và học điều này trực tiếp từ Đức Thế Tôn: đây là giáo pháp, đây là luật, đây là lời dạy của Bậc Đạo Sư.' Các con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ lời nói của Tỳ kheo ấy. Thay vào đó, sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời và câu ấy, các con nên đối chiếu chúng với kinh và xem xét chúng trong luật. Nếu chúng phù hợp với kinh và được thể hiện trong luật, các con nên đi đến kết luận: 'Rõ ràng đây là lời của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác. Tỳ kheo ấy đã ghi nhớ đúng.' Các con nên ghi nhớ điều đó. Đây là Đại Tham Chiếu thứ nhất.

Xét một Tỳ kheo khác nói: 'Tại tu viện kia có một Tăng đoàn (Saṅgha / cộng đồng tu sĩ Phật giáo) gồm các vị trưởng lão (seniors / vị Tỳ kheo lớn tuổi, có hạ lạp cao) và thượng thủ (leaders / người đứng đầu, lãnh đạo). Tôi đã nghe và học điều này trực tiếp từ Tăng đoàn đó: đây là giáo pháp, đây là luật, đây là lời dạy của Bậc Đạo Sư.' Các con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ lời nói của Tỳ kheo ấy. Thay vào đó, sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời và câu ấy, các con nên đối chiếu chúng với kinh và xem xét chúng trong luật. Nếu chúng không phù hợp với kinh và không được thể hiện trong luật, các con nên đi đến kết luận: 'Rõ ràng đây không phải là lời của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác. Tăng đoàn ấy đã ghi nhớ sai.' Và vì vậy các con nên từ bỏ nó.

Xét một Tỳ kheo khác nói: 'Tại tu viện kia có một Tăng đoàn gồm các vị trưởng lão và thượng thủ. Tôi đã nghe và học điều này trực tiếp từ Tăng đoàn đó: đây là giáo pháp, đây là luật, đây là lời dạy của Bậc Đạo Sư.' Các con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ lời nói của Tỳ kheo ấy. Thay vào đó, sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời và câu ấy, các con nên đối chiếu chúng với kinh và xem xét chúng trong luật. Nếu chúng phù hợp với kinh và được thể hiện trong luật, các con nên đi đến kết luận: 'Rõ ràng đây là lời của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác. Tăng đoàn ấy đã ghi nhớ đúng.' Các con nên ghi nhớ điều đó. Đây là Đại Tham Chiếu thứ hai.

Xét một Tỳ kheo khác nói: 'Tại tu viện kia có nhiều vị Tỳ kheo trưởng lão đa văn (very learned / nghe nhiều, học rộng), là người thừa tự pháp (inheritors of the heritage / người kế thừa di sản giáo pháp), trì pháp (remember the teachings / ghi nhớ giáo pháp), trì luật (monastic law / ghi nhớ giới luật), và trì mẫu đề (outlines / ghi nhớ các đề mục tóm tắt). Tôi đã nghe và học điều này trực tiếp từ các vị trưởng lão đó: đây là giáo pháp, đây là luật, đây là lời dạy của Bậc Đạo Sư.' Các con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ lời nói của Tỳ kheo ấy. Thay vào đó, sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời và câu ấy, các con nên đối chiếu chúng với kinh và xem xét chúng trong luật. Nếu chúng không phù hợp với kinh và không được thể hiện trong luật, các con nên đi đến kết luận: 'Rõ ràng đây không phải là lời của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác. Các vị trưởng lão ấy đã ghi nhớ sai.' Và vì vậy các con nên từ bỏ nó.

Xét một Tỳ kheo khác nói: 'Tại tu viện kia có nhiều vị Tỳ kheo trưởng lão đa văn, là người thừa tự pháp, trì pháp, trì luật, và trì mẫu đề. Tôi đã nghe và học điều này trực tiếp từ các vị trưởng lão đó: đây là giáo pháp, đây là luật, đây là lời dạy của Bậc Đạo Sư.' Các con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ lời nói của Tỳ kheo ấy. Thay vào đó, sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời và câu ấy, các con nên đối chiếu chúng với kinh và xem xét chúng trong luật. Nếu chúng phù hợp với kinh và được thể hiện trong luật, các con nên đi đến kết luận: 'Rõ ràng đây là lời của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác. Các vị trưởng lão ấy đã ghi nhớ đúng.' Các con nên ghi nhớ điều đó. Đây là Đại Tham Chiếu thứ ba.

Xét một Tỳ kheo khác nói: 'Tại tu viện kia có một vị Tỳ kheo trưởng lão duy nhất rất đa văn, là người thừa tự pháp, đã ghi nhớ giáo pháp, luật, và các mẫu đề. Tôi đã nghe và học điều này trực tiếp từ vị trưởng lão đó: đây là giáo pháp, đây là luật, đây là lời dạy của Bậc Đạo Sư.' Các con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ lời nói của Tỳ kheo ấy. Thay vào đó, sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời và câu ấy, các con nên đối chiếu chúng với kinh và xem xét chúng trong luật. Nếu chúng không phù hợp với kinh và không được thể hiện trong luật, các con nên đi đến kết luận: 'Rõ ràng đây không phải là lời của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác. Vị trưởng lão ấy đã ghi nhớ sai.' Và vì vậy các con nên từ bỏ nó.

Xét một Tỳ kheo khác nói: 'Tại tu viện kia có một vị Tỳ kheo trưởng lão duy nhất rất đa văn, là người thừa tự pháp, đã ghi nhớ giáo pháp, luật, và các mẫu đề. Tôi đã nghe và học điều này trực tiếp từ vị trưởng lão đó: đây là giáo pháp, đây là luật, đây là lời dạy của Bậc Đạo Sư.' Các con không nên tán thành cũng không nên bác bỏ lời nói của Tỳ kheo ấy. Thay vào đó, sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời và câu ấy, các con nên đối chiếu chúng với kinh và xem xét chúng trong luật. Nếu chúng phù hợp với kinh và được thể hiện trong luật, các con nên đi đến kết luận: 'Rõ ràng đây là lời của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác. Vị trưởng lão ấy đã ghi nhớ đúng.' Các con nên ghi nhớ điều đó. Đây là Đại Tham Chiếu thứ tư.

Đó là bốn Đại Tham Chiếu."